TỔ CHỨC XÃ HỘI LÀNG NGHỀ VẠN PHÚC THỜI PHÁP THUỘC

Hà Đông có lịch sử lâu đời, là vùng đất cổ xưa của đồng bằng Bắc Bộ. Các làng xã ở Hà Đông có bề dày lịch sử, văn hóa, mang đầy đủ đặc trưng của làng Việt truyền thống. Đó là sự phân tầng đẳng cấp sâu sắc trong các bộ phận dân cư, sự tồn tại vững bền các tập tục cổ truyền, tính tự trị, tự quản lâu đời trong làng xã. Bởi vậy, diện mạo của các làng xã ở Hà Đông có thể xem là tiêu biểu, điển hình cho vùng đồng bằng Bắc Bộ.


Một vài đặc điểm về làng nghề Vạn Phúc

Vạn Phúc có vị trí đặc biệt, tạo nên diện mạo cho mảnh đất trăm nghề của Hà Đông, là nơi tiêu biểu điển hình cho làng nghề truyền thống của đồng bằng Bắc Bộ. Toàn xã có diện tích đất tự nhiên là: 1.240.000m2, trong đó đất ở là 185.000m2, đất trồng trọt là: 1.055.000m2. Số dân của Vạn Phúc trước cách mạng tháng Tám 1945 có 678 hộ, 3.000 nhân khẩu. Mật độ dân cư là 1.620 người/km2.

Trước cách mạng tháng Tám 1945, làng Vạn Phúc nằm trên địa bàn trọng yếu, chiến lược ở cửa ngõ phía tây Hà Nội, giáp tỉnh lỵ Hà Đông - cửa ngõ của trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, là cầu nối giữa Hà Nội với nhiều vùng của đất nước. Như vậy, Vạn Phúc, Hà Đông là địa bàn mang tính cơ động, chiến lược trong tầm nhìn của chính quyền thực dân Pháp.

Vạn Phúc nằm trên địa bàn tỉnh Hà Đông, nơi được Hoàng Trọng Phu ví trong Nhận xét về tỉnh Hà Đông là “một trong những tỉnh ở Bắc Kỳ mà những biến cố về chính trị gây được tiếng vang nhiều nhất”. Với vai trò quan trọng như vậy, nên từ rất sớm, thực dân Pháp đã chú ý tăng cường bộ máy cai trị với những tên quan lại khét tiếng như: Zoseph Bid, Hoàng Trọng Phu, Vi Văn Định. Vạn Phúc nằm tiếp giáp với các đường giao thông quan trọng nối liền với Hà Nội, Sơn Tây, Hòa Bình…

Các tổ chức xã hội làng nghề Vạn Phúc

Phường cửi

Tầng lớp thợ dệt chiếm phần lớn trong dân cư làng Vạn Phúc, chi phối hầu hết các mối quan hệ xã hội trong làng. Tầng lớp này tập hợp nhau lại thành một tổ chức gọi là phường cửi, thành viên của nó là những gia đình làm nghề dệt.

Nguyên nhân ra đời tổ chức phường cửi hay một cách gọi khác là phường dệt, do sự cần thiết phải liên hiệp, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người sản xuất cá thể. Sản xuất bao giờ cũng mang tính xã hội, một cá thể sản xuất chỉ mang tính chất tương đối, có những khâu, những mặt buộc người sản xuất phải liên hiệp với nhau. Trong nghề dệt thủ công, người sản xuất cần sự giúp đỡ của những người khác về nhân công, vốn liếng, nguyên liệu… Vì thế tổ chức phường dệt ra đời để bổ sung những điều kiện cần thiết cho người sản xuất. Mặt khác, phường dệt ra đời để bảo vệ nghề nghiệp chuyên môn của làng, là một cách thức sinh sống dựa trên chế độ tư hữu. Bảo vệ nghề nghiệp cũng có nghĩa là tạo những điều kiện thuận lợi cho người lao động trong tổ chức phường dệt, bằng cách cạnh tranh với bên ngoài, hạn chế cạnh tranh, phân hóa bên trong, giúp đỡ bạn nghề…

Phường dệt có tác dụng tích cực đối với người thợ dệt, sản xuất đòi hỏi một số vốn tối thiểu nào đó. Người thợ dệt thường không có nhiều vốn để có thể mua sắm đủ tư liệu, nguyên liệu sản xuất. Đã vậy, khi quy trình sản xuất không trôi chảy cũng có thể làm cho mọi việc bị gián đoạn. Về mặt này, phường dệt đã phát huy tác dụng của nó. Phường dệt huy động những vốn lẻ tẻ của nhiều người để sử dụng tập trung hoặc tùy từng lúc mà điều hòa theo nhu cầu của từng người. Nhờ đó, những lúc cần thiết, người sản xuất có thể sử dụng được một số vốn lớn hơn số vốn mình có, để tăng cường khả năng sản xuất, nâng cao chất lượng, khối lượng sản phẩm.

Phường dệt làng Vạn Phúc tuy chưa có một quy chế rõ ràng quy định về những hoạt động của tổ chức này, nhưng đã có những luật lệ nhất định mà mọi người phải tuân theo như: thành viên của phường phải là những người dệt giỏi (thường là ông chủ nhà hoặc con trai cả có tuổi từ 35-40 trở lên, tôn trọng, kính nể những người tài giỏi, nhất là những người được phong chức bá hộ, con gái chỉ được truyền bí quyết nghề nghiệp khi đã lấy chồng trong làng, không được dựng máy dệt để bán cho người làng khác...

Ngoài ra phường cửi còn quy định những gia đình nào làm nghề dệt mà chưa phải là hội viên của phường thì không được đem hàng đi bán mà phải nhờ hội viên của phường cửi đi bán hộ, đây là một hình thức kiểm tra ban đầu. Nếu hàng làm ra không đẹp thì không ai bán hộ cho, việc làm này nhằm giữ uy tín cho làng nghề. Như vậy, ngoài chức năng quản lý, phường dệt còn có chức năng bảo vệ, giữ gìn uy tín, chất lượng cho sản phẩm của làng nghề.

Đã là hội viên của phường cửi thì bố chết con được thừa kế, gia đình nào đã vào phường cửi thì sẽ mãi mãi là hội viên (trừ khi phạm vào những quy định của phường cửi). Khi được gia nhập vào phường cửi, gia đình phải soạn một lễ cúng ở đền phường cửi vào dịp lễ hội hàng năm (ngày 7 - 1 âm lịch ). Lễ gồm có: xôi, gà, một đồng bạc Đông Dương - tiền công đức cho quỹ phường cửi. Ở làng Vạn Phúc, đã làm nghề dệt thì trước sau cũng vào phường cửi, vì nếu chưa gia nhập thì sẽ không được bán sản phẩm trực tiếp đến người tiêu dùng, như thế sẽ bị thiệt thòi hơn so với những gia đình khác trong hội phường cửi.

Phường dệt Vạn Phúc đặc biệt chú trọng trau dồi nghề nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm, dìu dắt thợ trẻ. Việc kính trọng người cao tuổi, người làm nghề dệt lâu năm, biểu hiện tinh thần quý trọng kinh nghiệm sản xuất. Trong thực tế, những người già được tôn trọng, thường giữ một vai trò quan trọng trong một số khâu hoặc toàn bộ quy trình kỹ thuật cũng như trong việc phổ biến kinh nghiệm trong phường. Do liên kết trong một tổ chức, có quan hệ với nhau, lại cùng lao động, mọi người trong phường có cơ hội học hỏi kinh nghiệm, rèn luyện nâng cao tay nghề. Con cái của các thành viên phường hội ngay từ thủa nhỏ đã được học tập nghề nghiệp, không những do người lớn dạy bảo mà còn do được quan sát sản xuất trong phạm vi hoạt động của phường dệt hàng ngày diễn ra. Đến một tuổi nhất định chúng có thể tham gia một phần công việc.

Trong hoạt động của phường cửi còn có việc thờ cúng thánh sư để tỏ lòng biết ơn đối với người truyền nghề cho làng.

Như vậy, phường cửi vừa có tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, vừa ủng hộ bảo vệ nghề nghiệp. Việc biến nghề dệt thành nghề riêng của từng phường cửi là một trong những mục đích của phường. Nghề nghiệp sinh ra phường cửi nhưng chế độ phường cửi cũng thúc đẩy thêm sự phát triển của nghề dệt. Phường cửi là một hình thức tổ chức kinh tế xã hội đặc sắc của thời phong kiến cũng như trong thời kỳ đầu TK XX đến trước 1945 của làng Vạn Phúc.

Phường cửi có một vai trò lịch sử nhất định trong đời sống kinh tế, xã hội thời kỳ này. Mặc dù vậy, phường cửi cũng còn có mặt hạn chế. Trước hết đó là một tổ chức có tính chất cục bộ, nó gây ra sự đối lập giữa người bên trong, người bên ngoài hội, đề cao quyền lợi của một nhóm người nhất định. Trong việc truyền nghề, phường cửi cũng có những tác dụng nhất định, nhưng mặt khác nó lại cản trở sự tiến bộ của kỹ thuật. Những người giỏi nghề chỉ phổ biến kinh nghiệm trong gia đình, cho con trai trưởng. Vì thế kỹ thuật nghề bị bưng bít, dễ bị mai một. Đối với nhân công lao động xã hội, tác dụng của phường cửi cũng có hạn. Sự phân công đến từng người trong phường cửi hầu như không có. Người thợ thủ công trong phường cửi cũng như người thợ thủ công cá thể phải tự mình hoàn thành sản phẩm từ khâu đầu đến khâu cuối.

Vượt lên trên những hạn chế đó, phường cửi đã chứng minh được khả năng tổ chức kinh tế, sự kế thừa liên tục truyền thống đoàn kết trong sản xuất của người lao động. Việc tổ chức, đoàn kết trong sản xuất có ý nghĩa quan trọng đối với người sản xuất nhỏ. Nó là nguồn bổ sung thuận lợi, là chỗ dựa đáng tin cậy cho người sản xuất nhỏ. Không một tổ chức cùng thời nào mang tính chất xã hội rộng lớn có thể làm được như thế. Do đó đã nâng sản xuất nhỏ lên một bước cao hơn, duy trì hoạt động lâu dài trong đời sống xã hội làng nghề Vạn Phúc.

Giáp

Giáp là một hình thức tổ chức dành riêng cho nam giới không chỉ ở làng Vạn Phúc mà còn phổ biến ở các làng Việt cổ truyền khác. Phụ nữ không vào giáp. Thông thường mỗi làng có 4 giáp nhưng ở làng Vạn Phúc có tới 14 giáp. Dân cư của làng tự phân thành 14 giáp theo từng họ, họ lớn thì có 2 đến 3 giáp, họ nhỏ hơn thì thành 1giáp.

Tên các giáp đặt theo chữ của đôi câu đối, đặt ở hai dãy tại đình Vạn Phúc, thể hiện tài văn chương, mong cầu an khang, thịnh vượng cho dân làng.

Theo đó mỗi giáp lấy một chữ gắn với chữ vạn (tên của làng) mà đặt tên cho giáp: Vạn Phúc, Vạn Hữu, Vạn Lộc, Vạn Tài, Vạn Lợi...

Tổ chức giáp đề ra một loại quan hệ đặc biệt giữa người với người, đó là quan hệ tuổi tác. Về nguyên tắc, khi một bé trai mới chào đời đã được vào giáp ngay. Nhưng trên thực tế đó chỉ là hình thức ghi tên vào sổ bộ giáp. Các giáp làng Vạn Phúc có quy định ngày 2 - 12 âm lịch hàng năm là ngày vào giáp của các thành đinh đến 18 tuổi. Ngày này không chỉ các thành đinh mới mà cả những thành viên trong phe giáp phải lên đình lễ thánh. Khi đã vào giáp từng người tuần tự đảm nhiệm các khâu trong quá trình sinh hoạt của giáp.

Ở làng Vạn Phúc, diện tích công điền, công thổ quá hạn hẹp không cho phép cắt khẩu phần cho từng người, vì thế bộ máy chính quyền làng xã cho mỗi giáp một khoảng nào đó để mỗi giáp tự giải quyết lấy với các thành viên của mình. Mỗi giáp có số lượng trên dưới 100 người, có vài ba sào ruộng. Các phe giáp giao cho các gia đình luân phiên nhau cày cấy, sản lượng màu thu được dùng vào công việc chung của phe giáp; một phần dùng để đóng thuế thân cho đinh tráng trong giáp, phần còn lại bỏ vào quỹ của giáp để lo việc lễ, hiếu.

Lệ làng Vạn Phúc quy định mỗi giáp chịu trách nhiệm tổ chức lễ hội, phục vụ đình một năm. ở phía ngoài tảo mạc của đình được chia thành 14 gian, mỗi bên 7 gian để dành cho 14 giáp hội họp những ngày làng có việc. Kinh phí để duy trì hoạt động lễ hội nằm trong tiền bán màu của các giáp, tiền bán nhiêu, xã (là những phẩm hàm không phải do triều đình ban cấp mà do xã bán ra một cách không định kỳ để lấy tiền làm các việc công ích bất thường). Giáp nào có nhiều tiền thì mới tổ chức rước. Đứng đầu giáp là cụ cử. Giáp chịu sự điều hành của chính quyền cơ sở. Ngược lại chính quyền cơ sở lại rất cần đến sự trợ lực của các giáp trong việc đôn thúc dân làm làm nhiệm vụ đối với Nhà nước (đóng thuế, đi phu, đi lính), điều hòa cuộc sống của làng xã bằng một số biểu hiện tinh thần (trước hết là tổ chức lễ hội).

Vai trò của giới trong làng dệt

Ở làng Vạn Phúc có  90% dân số làm nghề dệt trong đó đàn ông tham gia với vị trí, vai trò khác biệt.

Trước hết, dễ nhận thấy nhất là nữ giới có vai trò quan trọng. Ở Vạn Phúc, tỷ lệ nữ giới tham gia nghề dệt là 75%, chủ yếu là phụ nữ trẻ. Tỷ lệ này cao hơn các làng nghề trong vùng nhưng so với các làng dệt của người dân tộc lại thấp hơn.

Hơn nữa hình thức tổ chức dệt phân tán theo từng hộ gia đình. Dệt tại nhà, người phụ nữ vừa có thu nhập, vừa tiết kiệm, tranh thủ được thời gian làm việc cả trưa, tối đồng thời lại có điều kiện chăm sóc con cái, nội trợ gia đình. Khi nắm vững nghề, có điều kiện kinh tế, họ có thể thuê người làm, còn họ quản lý điều hành sản xuất. Ngay cả khâu tiêu thụ thường là của nam giới nhưng họ cũng tham gia, quảng bá cho sản phẩm với tất cả sự năng động, nhạy bén của mình.

Phụ nữ Vạn Phúc là người duy trì tục tế lễ ở đình suốt những năm mà nhiều nơi bỏ tục lễ thành hoàng làng, đến khi phong trào tế lễ này được khôi phục thì các bà lại đứng sang một bên, giao lại việc cúng tế cho hội người cao tuổi, ban khánh tiết tổ chức theo định kỳ.

Lụa Vạn Phúc đẹp có tiếng hơn các làng khác là do người phụ nữ khéo hơn các làng khác, lại biết cải tiến thích nghi với các yêu cầu mới của thị trường. Từ khâu dệt, chọn tơ, hồ của Vạn Phúc đều có kỹ thuật riêng, làm cẩn thận hơn các nơi khác. Riêng trong khâu hồ, phụ nữ Vạn Phúc bôi hồ vào sợi dọc, chỉ kéo dài 4m mà không bị dính, không bị đứt. Vẻ đẹp của lụa Vạn Phúc chính là kỹ năng dệt của người phụ nữ được truyền dạy từ tấm bé.

Như vậy, nữ giới ở làng Vạn Phúc đã giữ gìn, phát huy hết vai trò của người phụ nữ trong thời kỳ này.

Nói đến nghề dệt, người ta thường nói đến vai trò của người phụ nữ. Nhưng ở Vạn Phúc cách nhìn nhận trên không còn đầy đủ, chính xác. Người đàn ông ở Vạn Phúc đã thể hiện vai trò quyết định của họ trong quy trình sản xuất dệt lụa. Vai trò đó thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực sáng tạo mẫu hoa văn cho các sản phẩm dệt, cải tiến khung dệt, bán hàng…

Từ những khung dệt the, dệt lụa trơn, người thợ dệt Vạn Phúc đã khéo léo lắp thêm chân đòn, lắp thêm go vân hoặc thay đổi cách dậm chân đòn để tạo ra nhiều mặt hàng hoa văn đẹp, bắt mắt hơn, tinh xảo hơn. Các mẫu hoa văn to, nhỏ, phong phú, đa dạng được nhiều người ưa thích. Những công đoạn trên hoàn toàn do nam giới của làng đảm nhiệm. Tất cả các nghệ nhân dệt gấm ở làng Vạn Phúc đều là nam giới. Ngoài ra, trong các công đoạn tiêu thụ sản phẩm, đi bán hàng cũng do nam giới đảm nhiệm.

Như vậy, trong khâu sáng tác mẫu sản phẩm, bán hàng thì vai trò chính là người đàn ông. Người phụ nữ thể hiện vai trò của mình trong khâu dệt, hồ sợi, suốt… Nhưng vai trò của nam giới lại mang tính chất quyết định. Vì hàng tạo ra khi đã có một mẫu hoa, người thợ dệt chỉ việc dệt theo nguyên mẫu đó. Cách nhìn nhận quen thuộc cho rằng nghề dệt là của riêng phụ nữ không còn đầy đủ, chính xác khi nhìn vào làng dệt Vạn Phúc. Ở đây vai trò của người đàn ông đã giữ vai trò quyết định, chính họ đã sáng tạo  những mẫu hoa văn tuyệt đẹp để từ đó cho ra đời những tấm lụa có một không hai.

Những đổi mới của làng nghề hiện nay

Là một làng dệt thủ công truyền thống nên tầng lớp đông đảo nhất trong làng là thợ thủ công. Đây là lực lượng sản xuất chính của làng, chiếm tới 85% số dân, chi phối hầu hết các mối quan hệ xã hội trong làng.

Họ hiểu biết thời cuộc, nhạy bén với những đổi thay của xã hội, giữ vai trò quan trọng trong quá trình tiếp thu ảnh hưởng của cách mạng, phát triển phong trào cách mạng trong làng.

Như vậy, trong cơ cấu tầng lớp xã hội ở làng Vạn Phúc thì tầng lớp thợ thủ công là đông đảo nhất. Thợ thủ công trong thời kỳ đầu TK XX đến trước năm 1945 phát triển mạnh mẽ, bao gồm cả thợ làm thuê, những người tự sản xuất. Đó là hệ quả của chính sách chấn hưng công nghệ do bộ máy thống trị ở địa phương duy trì thực hiện.

Bộ máy quản lý làng xã hiện nay có những thay đổi sâu sắc, rõ nét, đó là xóa bỏ rồi thiết lập lại hội đồng kỳ mục, quy định một cách cụ thể, chi tiết nhiệm vụ, quyền hạn của các thành viên trong hội đồng quản trị làng xã, tăng cường vai trò của các lý dịch. Ngoài ra còn từng bước đưa giai cấp địa chủ phong kiến, tầng lớp tân học có quan hệ với chính quyền thuộc địa lên nắm địa vị thống trị ở nông thôn, thay thế cho tầng lớp Nho học trước đó.

Ở làng Vạn Phúc, có uy tín lớn trong làng lại là những gia đình bá hộ, gia đình buôn bán lớn (tầng lớp tiểu chủ). Thứ bậc sĩ, nông, công thương trong quan niệm truyền thống từng chi phối quan hệ xã hội làng xã hàng nghìn năm bị phá vỡ. Đây là đặc điểm khác biệt nhất của làng Vạn Phúc so với các làng thuần nông. Tầng lớp công thương được đề cao. Những gia đình giàu có không phải tính bằng số lượng ruộng đất, thóc gạo hay trâu bò mà tính bằng số lượng khung cửi, sản phẩm dệt. Chính vì vậy, trong thời kỳ này, việc bầu các chức vụ trong bộ máy thống trị làng xã như lý trưởng, phó lý, chánh phó hội… gặp nhiều khó khăn.

Đối với một làng làm nghề thủ công nghiệp như Vạn Phúc thì ruộng đất không phải là vấn đề hàng đầu trong đời sống kinh tế, nó chỉ có tác dụng hỗ trợ cho cuộc sống người thợ. Do đó sợi dây ràng buộc giữa giai cấp thống trị, người dân mờ nhạt. Vấn đề chính ở đây lại là vấn đề kỹ thuật nghề nghiệp, bởi vì kỹ thuật nghề nghiệp đem lại những nguồn thu nhập cao cho thợ dệt. Những thợ dệt giỏi được phong bá hộ, có địa vị uy tín trong dân làng.

 Mặt khác, ở Vạn Phúc ruộng đất ít nên tầng lớp nông dân chiếm một tỷ lệ nhỏ trong dân số, khoảng 7% số hộ. Do số lượng ít ỏi, nguồn thu nhập do ruộng đất đem lại không đáng kể nên tầng lớp nông dân có xu hướng chuyển sang làm nghề dệt. Mặc dù đã có sự phân hóa giữa những hộ tiểu chủ - tiểu thương, người thợ dệt nhưng sự phân hóa chưa cao. Giữa hai tầng lớp này có mối quan hệ tác động qua lại với nhau như những người bạn hàng, phường bạn. Tiểu thương, thợ thủ công là hai tầng lớp chính, có uy tín, vị trí trong làng.

Nghề dệt có ảnh hưởng đến các mặt văn hóa, xã hội cổ truyền như: lễ hội, quan hệ xã hội.

Nét biểu hiện rõ nhất của làng dệt truyền thống Vạn Phúc là trong cơ cấu kinh tế xã hội, thợ thủ công nghiệp là tầng lớp đông đảo chiếm 85% dân số. Sự phân cấp thứ bậc trong xã hội có sự khác biệt so với các làng nông nghiệp, tầng lớp sĩ, nông không được coi trọng mà có uy tín, địa vị trong dân làng là tầng lớp thợ thủ công, buôn bán.

Vạn Phúc là một làng thủ công nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nông nghiệp. Mối quan hệ thủ công nghiệp - nông nghiệp biểu hiện rất rõ qua lễ hội. Ngoài những nghi lễ đặc thù của một làng nghề (lễ hội đền phường cửi) còn có những nghi lễ nông nghiệp (lễ xuống đồng, lễ cơm mới). Tuy nghề nông không còn giữ vị trí chủ đạo nhưng bóng dáng của nghề nông vẫn chưa mất đi vai trò lịch sử của nó.

Nghề dệt đã in đậm không chỉ trong tâm thức dân gian, lễ hội mà còn trong đời sống gia đình, sinh hoạt cộng đồng xã hội. Trong tâm thức dân gian của người thợ dệt, cư dân làng dệt Vạn Phúc, nghề nghiệp là kết tinh sản phẩm của trời đất, thấm đượm công sức tài hoa của con người. Trong mỗi gia đình làm nghề dệt, do hoạt động đặc thù của nghề nghiệp nên không có nhu cầu giáo dục học vấn cao mà phát sinh nhu cầu truyền nghề, tiếp thu nghề giữa các thế hệ trong gia đình. Đặc biệt phải kể đến vai trò của nam giới, họ là người quyết định sự thành công, giá trị của nghề dệt. Bên cạnh đó người phụ nữ cũng không kém phần quan trọng, họ giữ vị trí đặc biệt trong hoạt động của nghề nghiệp.

Nghề dệt phát triển kéo theo sự xuất hiện của phường cửi mà ở đó người thợ dệt có vị trí cao trong làng xã. Bên cạnh tổ chức phường dệt rất rõ ràng thì tổ chức phe giáp ở Vạn Phúc cũng được chú ý tới. Như vậy có thể thấy các tổ chức xã hội của làng dệt cổ truyền Vạn Phúc đã làm phong phú hơn bức tranh làng xã cổ truyền Việt Nam ở đồng bằng Bắc Bộ.

Nhìn lại cách thức tổ chức, phân tầng xã hội của làng nghề truyền thống trong lịch sử, có thể thấy rất nhiều điều cần học hỏi trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Làng nghề muốn tồn tại, phát triển bền vững đòi hỏi vai trò của các tổ chức xã hội trong làng nghề luôn phải giữ thế chủ động, sáng tạo trong quá trình sản xuất, chủ động tìm đầu ra cho sản phẩm. Quy trình áp dụng công nghệ, tái cơ cấu sản xuất kết hợp giữa khoa học công nghệ hiện đại với truyền thống để tạo ra những mặt hàng tinh xảo, thượng hạng đáp ứng được thị hiếu, yêu cầu của các nước trên thế giới trong quá trình hội nhập luôn là những vấn đề cần đặt ra cho người thợ thủ công tại các làng nghề truyền thống trong bối cảnh hiện nay.


Nguồn : Tạp chí VHNT số 385, tháng 7-2016

Tác giả : LÊ THỊ HOA

;