50 năm văn học, nghệ thuật Việt Nam: Thành tựu và những khoảng cách còn lại

Sáng 27-6, tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế (35 Hùng Vương, Ba Đình, Hà Nội), Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (Bộ VHTTDL) tổ chức Hội thảo khoa học “Nhìn lại sự vận động, phát triển của văn học, nghệ thuật Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975-30/4/2025)”.

Tham dự Hội thảo có: PGS, TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên chuyên trách của Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội; TS Đỗ Quốc Việt - Phó Cục trưởng Cục Điện ảnh; Phó Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn Lương Đức Thắng; lãnh đạo một số  đơn vị, hội chuyên ngành lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật ở Trung ương cùng đông đảo các nhà nghiên cứu, cán bộ quản lý, văn nghệ sĩ và các cơ quan báo chí đưa tin về hội thảo.

Về phía Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật có: Ths, Tổng Biên tập Hoàng Hà; Phó Tổng Biên tập Đặng Xuân Mã cùng các cán bộ, biên tập viên, phóng viên, viên chức của Tạp chí.

Ths ,Tổng Biên tập Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật Hoàng Hà; Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật Đặng Xuân Mã; PGS, TS Nguyễn Toàn Thắng - nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh điều hành Hội thảo - Ảnh: Lan Anh

Hội thảo đã nhận được 33 bài tham luận của các chuyên gia, nhà nghiên cứu, cán bộ quản lý, văn nghệ sĩ đến từ đến từ các viện nghiên cứu; các trường đào tạo văn hóa, nghệ thuật; các nhà hát, đơn vị nghệ thuật; hội văn học nghệ thuật chuyên ngành ở Trung ương và địa phương; cơ quan truyền thông.

Phát biểu đề dẫn Hội thảo, Ths Hoàng Hà, Tổng Biên tập Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật  khẳng định: Văn học, nghệ thuật luôn được Đảng ta xác định là lĩnh vực rất quan trọng và đặc biệt tinh tế của văn hóa. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, văn học, nghệ thuật đã hoàn thành sứ mệnh vẻ vang đồng hành cùng dân tộc, phản ánh, cổ vũ, thôi thúc quân và dân ta đánh thắng giặc ngoại xâm, giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội, với đại thắng mùa Xuân 1975.

 Tổng Biên tập Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật Hoàng Hà phát biểu đề dẫn Hội thảo - Ảnh: Lan Anh

“Tấm bản đồ văn học, nghệ thuật” đất nước liền một dải, 50 năm qua, văn học, nghệ thuật Việt Nam tiếp tục mạch nguồn truyền thống cách mạng, bám sát thực tiễn và hơi thở cuộc sống, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ, góp phần bồi đắp tâm hồn, tư tưởng, tình cảm và khí phách con người Việt Nam....” – Tổng Biên tập Hoàng Hà nhấn mạnh. Cũng theo Tổng Biên tập Hoàng Hà, Nghị quyết 23-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới đã khẳng định văn học, nghệ thuật “là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam”. Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu đạt được, lĩnh vực văn học, nghệ thuật vẫn còn những hạn chế, đó là sự thiếu vắng những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, phản ánh đúng tầm vóc của sự nghiệp đổi mới, có sức lay động mạnh mẽ công chúng. Còn có những tác phẩm nặng về giải trí, dễ dãi chạy theo thị hiếu tầm thường; một số tác phẩm phản ánh sự bế tắc, u tối, xa rời thực tiễn cuộc sống. Nghệ thuật truyền thống gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì hoạt động. Công tác lý luận, phê bình cũng đã có những thành tựu nhất định nhưng chưa tương xứng với kỳ vọng. Chính sách cho văn học, nghệ thuật vẫn còn những vướng mắc, bất cập…

Nhằm giúp các chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà quản lý và văn nghệ sĩ nhận diện rõ hơn về thành tựu cũng như thực trạng phát triển của văn học, nghệ thuật 50 năm sau ngày đất nước thống nhất; từ đó có các giải pháp, đề xuất phù hợp, thúc đẩy văn học, nghệ thuật phát triển bền vững trong thời gian tới, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (Bộ VHTTDL) tổ chức Hội thảo khoa học “Nhìn lại sự vận động, phát triển của văn học, nghệ thuật Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975- 30/4/2025)”.

Các đại biểu tham dự Hội thảo - Ảnh: Phạm Chính

Ths Hoàng Hà đề nghị các đại biểu tập trung thảo luận và làm rõ các vấn đề: Đánh giá sự vận động, phát triển văn học, nghệ thuật Việt Nam qua 50 năm đất nước thống nhất, chỉ ra những đặc điểm nổi bật, nhất là từ sau đổi mới (1986) đến nay (ưu điểm, hạn chế); Phân tích nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong xây dựng và phát triển nền văn học, nghệ thuật nước nhà 50 năm qua; Đề xuất các giải pháp hữu hiệu để xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật Việt Nam thực sự là một thành tố quan trọng của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần vào sự phát triển bền vững của văn học, nghệ thuật nước nhà trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Tổng quan về tiến trình vận động và phát triển của văn học, nghệ thuật Việt Nam

Trình bày tham luận “Tổng quan về tiến trình vận động và phát triển của văn học, nghệ thuật Việt Nam (1975-2025), PGS, TS Nguyễn Toàn Thắng - nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đề cập đến ba nội dung: những tiền đề lịch sử, văn hóa và mỹ học của sự phát triển văn học, nghệ thuật Việt Nam 1975-2025; phác thảo những chặng đường vận động, phát triển văn học, nghệ thuật Việt Nam 1975-2025; Khái quát về một số xu hướng vận động, phát triển chủ yếu của văn học, nghệ thuật Việt Nam.

PGS, TS Nguyễn Toàn Thắng trình bày tham luận “Tổng quan về tiến trình vận động và phát triển của văn học, nghệ thuật Việt Nam (1975-2025) - Ảnh: Lan Anh

Theo PGS, TS Nguyễn Toàn Thắng, văn học, nghệ thuật Việt Nam từ sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đến nay (1975-2025) đã kế thừa và phát triển những nguyên lý mỹ học mác xít, phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa được khẳng định bằng những thành tựu to lớn của văn học, nghệ thuật kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) và kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc (1955-1975). 

Từ sau năm 1986, văn học, nghệ thuật nước nhà đã đồng hành cùng sự nghiệp đổi mới trên phạm vi cả nước. Đội ngũ văn nghệ sĩ trí thức theo tiếng gọi của Đảng đã ra sức tìm tòi khám phá, sáng tạo về phương pháp sáng tác để đổi mới tư duy nghệ thuật, nâng cao chất lượng nội dung và hình thức nghệ thuật cho tác phẩm trên hầu hết các thể loại văn học, âm nhạc, hội họa, kiến trúc, sân khấu, điện ảnh, tích cực góp phần xây dựng và phát triển nền văn học, nghệ thuật nước nhà trong xu thế giao lưu hội nhập quốc tế ngày càng rộng mở…

Bên cạnh quan điểm mỹ học mác xít, văn nghệ sĩ có dịp giao lưu tiếp biến các quan niệm thẩm mỹ đương đại đa sắc màu của nhiều nền nghệ thuật trên thế giới để có thể tham khảo nhằm hiện đại hóa văn học, nghệ thuật nước nhà. Từ khi có sự bùng nổ của internet và truyền thông đại chúng, nền văn học nghệ thuật Việt Nam có cơ hội tiếp xúc với văn học, nghệ thuật nhân loại, đồng thời lan tỏa giá trị dân tộc trên phạm vi thế giới rộng lớn.

Bối cảnh đó đã chi phối, tác động mạnh mẽ đến đội ngũ văn nghệ sĩ và công chúng, khiến những người sáng tạo và thưởng thức tiếp nhận văn học, nghệ thuật vừa có những ngỡ ngàng, lúng túng, vừa có cả sự háo hức đón đợi trước những điều khác lạ chưa có tiền lệ trong tình hình mới.

Các đại biểu tại Hội thảo - Ảnh: Lan Anh

Phác thảo chặng đường đổi mới của văn học, nghệ thuật trước đổi mới (1975-1985), PGS, TS Nguyễn Toàn Thắng cho biết, đây là thời kỳ cả nước phải vượt qua nhiều thách thức, khó khăn gian khổ để xây dựng lại đất nước bằng tất cả khát vọng hồi sinh và ý chí kiên cường của cả dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Văn học, nghệ thuật Việt Nam bước vào giai đoạn mới mới: từ nghệ thuật chiến đấu sang nghệ thuật kiến thiết cuộc sống, từ âm vang của khúc khải hoàn ca chiến  thắng sang bản anh hùng ca tràn đầy khát vọng dựng xây hòa bình, để dân tộc bước đi mạnh mẽ hào hùng sang những trang sử mới. Đội ngũ văn nghệ sĩ vẫn chú trọng khai thác đề tài kháng chiến chống Mỹ cứu nước với những trăn trở suy tư sâu lắng về những điều trước đây chưa kịp viết, đồng thời bắt đầu khai thác đề tài cuộc sống mới, con người mới với sự hồi sinh mãnh liệt của dân tộc…

Chặng đường đổi mới, hội nhập quốc tế, xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (1986-2025), từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI, văn học, nghệ thuật nước nhà đã có sự phát triển đồng hành cùng sự nghiệp đổi mới trên tất cả các loại hình… Văn học, nghệ thuật trên phạm vi cả nước chủ yếu khai thác đề tài về hiện thực cuộc sống trong thời kỳ đổi mới và đạt thành tựu trên hầu hết các thể loại.

Từ những năm 2015 trở đi, văn học, nghệ thuật nước nhà được hiện đại hóa nhanh chóng trong quá trình giao lưu gặp gỡ với nghệ thuật hiện đại trên thế giới. Đặc biệt, mô hình Nhà hát Nghệ thuật đương đại trở thành sân khấu thể nghiệm nhiều chương trình mới lạ, ấn tượng. Một số nghệ sĩ đã ghi dấu ấn trong các lĩnh vực nghệ thuật đương đại. Gần đây là các nghệ sĩ trẻ đã khẳng định tài năng trong môi trường quốc tế như các MV Để Mỵ nói cho mà nghe của Hoàng Thùy Linh và Bắc Bling của Hòa Minzy… đã được sự đón nhận của đông đảo công chúng trong và ngoài nước…

Nhà văn Bùi Việt Thắng trình bày tham luận “Luận bàn các khuynh hướng sáng tác văn học trên văn đàn Việt Nam từ sau đổi mới 1986- tiếp cận từ văn hóa” - Ảnh: Lan Anh

Các khuynh hướng sáng tác văn học trên văn đàn Việt Nam

Với tham luận về “Luận bàn các khuynh hướng sáng tác văn học trên văn đàn Việt Nam từ sau đổi mới 1986- tiếp cận từ văn hóa”, nhà văn Bùi Việt Thắng cho rằng, trong nửa thế kỷ (1975-2025) trên văn đàn Việt Nam đương đại xuất hiện nhiều khuynh hướng sáng tác văn học, điều đó chứng tỏ tinh thần của đổi mới mở ra tự do sáng tạo với văn nghệ sĩ. Sự lựa chọn khuynh hướng sáng tác trước tiên tùy thuộc vào sự lựa chọn của chủ thể trên nền tảng tư tưởng - nghệ thuật và phong cách cá nhân. Nhưng tựu trung, không hề tách rời những quy định có tính khế ước xã hội, của hoàn cảnh văn hóa - lịch sử - tâm lý thời đại mới.

Nhà văn Bùi Việt Thắng cũng cho rằng, nổi bật và thống ngự trên văn đàn vẫn là hai khuynh hướng sáng tác chính, có thành tựu, góp phần quan trọng tạo nên diện mạo và sắc thái văn chương đương đại: khuynh hướng nhận thức lại thực tại và khuynh hướng tiếp cận thế giới tâm linh.

Chia sẻ về khuynh hướng nhận thức lại thực tại, theo nhà văn, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng là con đường của nhận thức chân lý theo tinh thần biện chứng. Nhận thức chân lý không chỉ diễn ra một lần, ngay lập tức mà là một quá trình tiệm tiến dài lâu, đòi hỏi mỗi cá nhân và một thế hệ nhà văn phải có tinh thần đón đợi.

Lấy ví dụ về tác phẩm Thời xa vắng của nhà văn Lê Lựu, nhà văn Bùi Việt Thắng cho biết, đây là tác phẩm được coi như một “đột phá khẩu” của văn học Đổi mới, đồng thời được ghi nhận như là tác phẩm mở màn cho khuynh hướng nhận thức lại thực tại trong văn học Việt Nam đương đại. Nhân vật Giang Minh Sài mang trong mình vấn đề có ý nghĩa triết học - văn hóa - đạo đức - tâm lý của một thế hệ: sự mất cân bằng giữa cái “tôi” và cái “ta”; sống đúng bản ngã không hề là đơn giản, không tùy thuộc vào ý chí luận có tính chủ quan. Vấn đề hoàn cảnh và tính cách con người được đặt ra theo tinh thần “Muốn cho con người trở nên nhân đạo hơn thì trước tiên phải làm cho hoàn nhân đạo hơn” (C.Mác). Vấn đề của Giang Minh Sài, theo cách diễn đạt hôm nay là: cần thiết xây dựng “không gian văn hóa nhân văn” và xây dựng “nhân cách văn hóa”. Nhân vật Giang Minh Sài đã đi từ tác phẩm vào đời sống thể hiện một tư duy mới về kiếp nhân sinh và số phận con người…

PGS, TS Đỗ Lai Thúy trình bày tham luận "Vài suy nghĩ về sự vận động của văn học Việt Nam từ 1975-2025" - Ảnh: Phạm Chính

Nhà nghiên cứu Trần Hinh trình bày tham luận "Lý luận phê bình văn học Việt Nam sau 1975- những tiếp thu từ phương Tây (nhìn từ phía trường học)"- Ảnh: Lan Anh

Tăng cường ứng dụng công nghệ số trong công tác đào tạo múa và các ngành nghệ thuật khác

Tại Hội thảo, Ths, NSND Trần Ly Ly, Chủ tịch Hội đồng trường Học viện Múa Việt Nam đã trình bày tham luận “Đổi mới công tác giáo dục và đào tạo ngành múa và các ngành nghệ thuật khác trong kỷ nguyên mới”. Đưa ra quan điểm và một số định hướng trong thời gian tới, NSND Trần Ly Ly cho rằng, cần phải xác định lại mục tiêu đào tạo là xây dựng đội ngũ giảng viên và nghệ sĩ có tư duy toàn cầu. Hỗ trợ phát triển cá nhân nâng cao năng lực quản lý nghệ thuật, truyền thông, sáng tạo cá nhân. Ngoài việc đào tạo đồng đều, phát hiện và có kế hoạch đào tạo cá nhân hóa cho những cá nhân xuất sắc, có năng lực. Trong đó, người học được chọn để bồi dưỡng từng khả năng như: kỹ thuật chuyên sâu, tư duy sáng tạo hay tư duy phê bình. Với những người học có năng khiếu vượt trội, có nhiều yếu tố để trở thành một tài năng thì cần được học chương trình đào tạo chuyên sâu với chuyên gia trong nước và quốc tế, nghệ sĩ tên tuổi, nổi tiếng, có năng lực phương pháp huấn luyện tốt để định hình phong cách, cá tính sân khấu cho các em…

Ths, NSND Trần Ly Ly, Chủ tịch Hội đồng trường Học viện Múa Việt Nam cho rằng cần tăng cường ứng dụng công nghệ số trong công tác đào tạo múa và các ngành nghệ thuật khác - Ảnh: Lan Anh

Đồng thời, giáo dục đào tạo nghệ thuật cần phát triển theo hướng mở, linh hoạt và liên ngành, khuyến khích tư duy phản biện, sáng tạo và năng lực hội nhập. Xây dựng chương trình đào tạo tích hợp: kỹ thuật múa - biên đạo - quản lý nghệ thuật - công nghệ sân khấu. Với chương trình đào tạo đại học hiện nay do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành là chưa phù hợp với khối ngành nghệ thuật, chưa phát huy được sự sáng tạo của cả người dạy và người học. Đặc biệt là những ngành đào tạo nghệ thuật đòi hỏi phải nghiên cứu, tập luyện từ khi còn rất nhỏ khiến các em vướng mắc về thời gian học tập trên lớp quá nhiều cả văn hóa và chuyên môn nghệ thuật…

NSND Trần Ly Ly nhấn mạnh, cần chú trọng, đẩy mạnh lập các nhóm chuyên gia xây dựng giáo trình, bài giảng các học phần múa. Để xây dựng giáo trình múa hiệu quả, cần xác định rõ mục tiêu đào tạo gắn với yêu cầu thực tiễn và hội nhập quốc tế. Nội dung giáo trình phải đảm bảo tính chuyên sâu, tích hợp kỹ thuật múa truyền thống và hiện đại, kết hợp lý thuyết và thực hành. Cần cập nhật kiến thức mới, ứng dụng công nghệ, khuyến khích sáng tạo cá nhân và phát triển kỹ năng biểu đạt nghệ thuật phù hợp với từng độ tuổi và trình độ người học.

Tăng cường ứng dụng công nghệ số trong giảng dạy, luyện tập, ghi hình, biên đạo và tổ chức biểu diễn xây dựng thư viện tư liệu múa và các nghệ thuật khác điện tử. Hiện nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, việc ứng dụng hành tựu của công nghệ thông tin trong dạy - học là cần thiết để tiết kiệm thời gian, lưu giữ thành tựu vô cùng hữu ích…

Ths, NSƯT Lộc  Huyền cho biết Nhà hát đang đổi mới phương pháp để đưa nghệ thuật tuồng đến gần hơn với khán giả - Ảnh: Lan Anh

Đổi mới phương pháp để đưa nghệ thuật tuồng truyền thống đến gần hơn với khán giả

“Nghệ thuật Tuồng trong thời đại mới” là chủ đề tham luận do Ths, NSƯT Lộc Huyền (Nhà hát Tuồng Việt Nam) trình bày tại Hội thảo. Theo NSƯT Lộc Huyền, Sự phát triển của nghệ thuật tuồng truyền thống là một hành trình đầy thăng trầm lịch sử, với không ít giai đoạn thuận lợi xen lẫn khó khăn. Tuồng từng bị nhìn nhận như một “tàn dư phong kiến” - một cái nhìn thiếu toàn diện về giá trị đích thực của nó. Tuy nhiên, với tầm nhìn sâu rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp thưởng thức và dành lời khen ngợi chân thành, giúp tuồng được đánh giá nghiêm túc và công nhận là một loại hình sân khấu đặc sắc của dân tộc.

Từ đó, tuồng bắt đầu giai đoạn phát triển rực rỡ: các nghệ nhân tài hoa từ Bắc, Trung, Nam được tập hợp, nhiều đoàn hát chuyên nghiệp ra đời, và các lớp truyền thụ nghề được mở rộng. Hàng loạt nhà nghiên cứu và nghệ sĩ đã tiếp nối, không ngừng kế thừa và sáng tạo, làm giàu thêm vốn quý của nghệ thuật tuồng Việt Nam. Nhờ vậy, suốt thế kỷ XX, tuồng đã trở thành một trong những loại hình sân khấu chủ yếu, được đông đảo công chúng yêu thích và đón nhận nồng nhiệt.

Tuy nhiên, khi đất nước bước vào thời kỳ hội nhập sâu rộng, từ cuối thế kỷ XX đến nay, Tuồng đang mất đi vị thế trong lòng khán giả, đối mặt với tình trạng thiếu hụt nhân lực trầm trọng và đứng trước nguy cơ mai một nếu không có giải pháp kịp thời.

Nêu ra các nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng suy yếu của nghệ thuật Tuồng, NSƯT Lộc Huyền cho biết, đó là do: thiếu hụt nghiêm trọng nguồn nhân lực sáng tạo; hạn chế trong quy trình đào tạo và chính sách đãi ngộ…

NSƯT Lộc Huyền cũng cho biết, để khắc phục tình trạng nguy cơ mai một, trong thời gian qua, Nhà hát Tuồng Việt Nam đã có những nỗ lực đáng ghi nhận, không ngừng tìm tòi và đổi mới phương pháp để đưa nghệ thuật tuồng truyền thống đến gần hơn với khán giả. Công tác truyền thông và quảng bá về tuồng đã được đẩy mạnh rõ rệt, lan tỏa giá trị của loại hình nghệ thuật này.

Đặc biệt, Nhà hát đã chú trọng tiếp cận thế hệ trẻ một cách bài bản và có hệ thống. Các yếu tố đặc trưng của tuồng như nghệ thuật biểu diễn, mô hình nhân vật, kỹ thuật hóa trang và vũ đạo đã được giới thiệu tại nhiều trường học. Nhờ đó, các bạn trẻ đã dần quan tâm hơn, thậm chí chủ động mua vé đến rạp để thưởng thức các buổi biểu diễn tuồng.

Đồng thời, Nhà hát Tuồng Việt Nam cũng đã phối hợp chặt chẽ với các đơn vị, cá nhân để tạo ra nhiều chương trình biểu diễn và sự kiện độc đáo, thu hút sự quan tâm của công chúng...

Ths, NSND, Giám đốc Liên đoàn Xiếc Việt Nam Tống Toàn Thắng trình bày tham luận “Xiếc Việt Nam – tư duy đổi mới và cách tân nghệ thuật sau năm 1986" - Ảnh: Phạm Chính

Tư duy đổi mới để phát triển nghệ thuật Xiếc

Trình bày tham luận “Xiếc Việt Nam – tư duy đổi mới và cách tân nghệ thuật sau năm 1986”, Ths, NSND, Giám đốc Liên đoàn Xiếc Việt Nam Tống Toàn Thắng cho biết, sau khi đất nước giành độc lập năm 1945, nghệ thuật xiếc Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Năm 1956, Đảng và Nhà nước đã quan tâm và cho phép thành lập đoàn xiếc quốc gia đầu tiên, sau này được đổi tên là Liên đoàn Xiếc Việt Nam cho đến nay.

Ngày 16-1-1956 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc phát triển nghệ thuật xiếc. Từ đó Liên Đoàn Xiếc Việt Nam như cánh chim đầu đàn của nghệ thuật xiếc Việt Nam. Với biết bao thế hệ nghệ sĩ xiếc tài năng, luôn gìn giữ và phát triển nghệ thuật xiếc truyền thống. Xiếc Việt Nam nổi bật với các thể loại tiết mục mang đậm văn hóa dân tộc, nghệ thuật huấn luyện và biểu diễn với các loài thú thường kết hợp với trang phục truyền thống và âm nhạc dân gian. Điều này tạo nên sự hấp dẫn riêng, thu hút cả khán giả trong nước và quốc tế.

Hơn nửa thế kỷ hình thành và phát triển, Liên đoàn Xiếc Việt Nam đã không ngừng tiếp thu tinh hoa nghệ thuật truyền thống và kinh nghiệm quốc tế, đạt được những thành tựu đáng tự hào. Tuy nhiên, trước bối cảnh đổi mới và hội nhập sâu rộng của đất nước, cùng với sự thay đổi về đời sống vật chất và tư duy của con người Việt Nam, nghệ thuật xiếc đứng trước những yêu cầu và thách thức mới…

“Với tư duy đổi mới, Liên đoàn Xiếc Việt Nam đã chủ động học tập kinh nghiệm từ các nền nghệ thuật tiên tiến trên thế giới. Đặc biệt, sự quan tâm và định hướng từ các thế hệ lãnh đạo đã tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích các nghệ sĩ trẻ không ngừng sáng tạo, phát triển chuyên môn, từ đó xây dựng nên những chương trình mới mang tính nghệ thuật cao, thu hút đông đảo khán giả, đặc biệt là giới trẻ” – NSND Tống Toàn Thắng chia sẻ.

NSND Tống Toàn Thắng cũng cho biết, Liên đoàn Xiếc Việt Nam còn mạnh dạn phối hợp liên ngành, tìm kiếm những cách tiếp cận mới và mở rộng đối tượng khán giả. Điển hình là sự hợp tác với Nhà hát Cải lương Việt Nam trong đề án Huyền sử Việt, tạo nên sự kết hợp độc đáo giữa xiếc và cải lương. Hai vở Cây gậy thầnThượng Thiên Thánh mẫu đã mang đến sự ngạc nhiên thú vị, một cách tiếp cận mới mẻ, vừa mang tính giải trí cao, vừa giáo dục thông qua các huyền tích Việt Nam…

PGS, TS Vũ Ngọc Thanh, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh TP.HCM trình bày tham luận “Phim truyện điện ảnh Việt Nam sau 1975: một số khuynh hướng nghệ thuật và vấn đề đặt ra” - Ảnh: Phạm Chính

Nhiều khuynh hướng nghệ thuật đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển điện ảnh dân tộc

Với tham luận “Phim truyện điện ảnh Việt Nam sau 1975: một số khuynh hướng nghệ thuật và vấn đề đặt ra”, PGS, TS Vũ Ngọc Thanh, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh TP.HCM cho rằng, phim truyện điện ảnh Việt Nam từ khi đất nước thống nhất đến nay đã 50 năm, một chặng đường với những thành tựu, những giá trị căn cốt, trong đó có những khuynh hướng nghệ thuật. Điều đó được thể hiện không chỉ trong hệ thống các thủ pháp làm phim (được tập trung sử dụng nhiều và tạo dấu ấn sáng tạo đáng kể nhất) không dừng lại ở phương diện kỹ thuật mà đã trở thành nghệ thuật như những yếu tố mới của mỗi giai đoạn phát triển… Trong đó có các khuynh hướng: sáng tác theo phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa; kết hợp chất trữ tình và chất thơ; làm phim lịch sử/ chiến tranh; khuynh hướng đổi mới cách phản ánh hiện thực; khuynh hướng của các phim có đề tài hiện thực xã hội; khuynh hướng làm phim thị trường; khuynh hướng làm phim giải trí; khuynh hướng làm phim nghệ thuật… Nhiều khuynh hướng nghệ thuật đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển điện ảnh dân tộc.

PGS, TS Vũ Ngọc Thanh nhấn mạnh, là một hình thái trong hoạt động sáng tạo, các khuynh hướng hiện phải trực diện với nhiều vấn đề như cái cũ và cái mới, truyền thống và cách tân, dân tộc và thế giới, bản vị và hội nhập, nghệ thuật và thị trường, nhà nước và tư nhân… Đó cũng là những vấn đề rất lớn đặt ra cho văn hóa nghệ thuật nói chung, điện ảnh nói riêng phải nhận thức và ứng xử thích hợp trong thời kỳ mới…

Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, PGS, TS Bùi Hoài Sơn phát biểu tại Hội thảo - Ảnh: Phạm Chính

Văn học, nghệ thuật cần phải lấy công chúng là trung tâm

Phát biểu tại Hội thảo, Ủy viên chuyên trách của Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, PGS, TS Bùi Hoài Sơn nhấn mạnh: Để phát triển văn học, nghệ thuật trong thời gian tới cần phải có chính sách, hệ thống pháp luật đầy đủ cho lĩnh vực này.

“Rất vui mừng khi Chương trình mục tiêu về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035 sẽ được thực hiện, đây là nguồn lực quan trọng để phát triển văn hóa. Bên cạnh đó là sự hình thành nên hệ thống chính sách liên quan đến văn hóa, nghệ thuật, là các chính sách từ thuế, đất đai, hợp tác công tư… Trên cơ sở đó, hình thành nên môi trường, hệ sinh thái phù hợp, kích thích sự phát triển văn học, nghệ thuật” - PGS, TS Bùi Hoài Sơn bày tỏ.

Theo PGS, TS Bùi Hoài Sơn, chúng ta không thiếu đội ngũ văn nghệ sĩ tâm huyết, có năng lực, mong muốn cống hiến để phát triển nền văn học, nghệ thuật nước nhà. Nhưng chúng ta thiếu môi trường, thể chế, những điều kiện có liên quan để trên cơ sở đó chúng ta phát huy hết những tài năng, tâm huyết, cống hiến, mong muốn của đội ngũ văn nghệ sĩ.

Chúng ta cần phải quan tâm nhiều hơn bối cảnh của xã hội đương đại. Cần phải xử lý những vấn đề xã hội đương đại đang đặt ra đối với đội ngũ văn nghệ sĩ. Hiện nay, trong tất cả các lĩnh vực đều lấy đối tượng khách hàng là trung tâm. Đối với lĩnh vực văn học, nghệ thuật hiện nay và trong thời gian tới, phải lấy khán giả làm trung tâm, phải hình thành nên những chính sách, luật pháp, các tác phẩm, sản phẩm văn học nghệ thuật, từ đó nâng cao vị thế của mình, phù hợp với nhu cầu, mong muốn của khán giả.

Tuy nhiên, nếu để khán giả định hướng cho các sản phẩm văn học nghệ thuật thì sẽ gây ra ảnh hưởng nguy hại đối với thẩm mỹ nghệ thuật. Mặc dù lấy nhu cầu khán giả làm trung tâm, nhưng cũng cần phải định hướng thưởng thức thông qua phê bình nghệ thuật.

PGS, TS Bùi Hoài Sơn cho rằng, cần phải quan tâm đến sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, nên cần phải phát triển văn học số Việt Nam, xác định chủ quyền văn học, nghệ thuật số Việt Nam trên không gian mạng như thế nào, để từ đó phát triển văn học, nghệ thuật của đất nước. Không nên lảng tránh những vấn đề hiện tại quan trọng, đó là xu hướng tất yếu trong xã hội tương lai.

Trong bối cảnh đương đại tác động đó, chúng ta sẽ dần chuyển sang phát triển công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo, công nghiệp giải trí… những yếu tố đó sẽ điều hòa được tất cả vấn đề này.

“Hội thảo là một cơ hội tốt để chúng ta cùng nhìn lại sự vận động phát triển của văn học, nghệ thuật trong thời gian vừa qua. Những ý kiến đóng góp của các nhà nghiên cứu, quản lý sẽ là những ý kiến quan trọng để cơ quan Quốc hội có thể tham khảo, từ đó hình thành nên chính sách, luật pháp phù hợp với thực tiễn cuộc sống” – PGS, TS Bùi Hoài Sơn nhấn mạnh.

Phó Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn Lương Đức Thắng phát biểu tại hội thảo - Ảnh: Lan Anh

Phó Cục trưởng Cục Điện ảnh Đỗ Quốc Việt phát biểu tại hội thảo - Ảnh: Lan Anh

Tại hội thảo, Phó Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn Lương Đức Thắng, Phó Cục trưởng Cục Điện ảnh Đỗ Quốc Việt đã đánh giá cao ý nghĩa của hội thảo, nhấn mạnh tới quyết tâm thực hiện một số giải pháp trong công tác quản lý để thúc đẩy hoạt động nghệ thuật biểu diễn và điện ảnh phát triển.

Ths, Tổng Biên tập Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật Hoàng Hà phát biểu kết luận Hội thảo -Ảnh: Phạm Chính

Phát biểu kết luận Hội thảo, Ths, Tổng Biên tập Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật Hoàng Hà nhấn mạnh, ngoài 33 tham luận, Hội thảo đã nghe 13 ý kiến tham luận, trao đổi, phát biểu hết sức sâu sắc, tâm huyết của các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà quản lý, văn nghệ sĩ, tập trung  vào các nội dung:

Một là, khẳng định sự phát triển mạnh mẽ, khá toàn diện của lĩnh vực văn học, nghệ thuật Việt Nam trong 50 năm qua, đặc biệt từ sau Đổi mới (1986). Nổi bật là sự tiếp nối và phát huy tinh thần chủ nghĩa yêu nước cách mạng và nhân văn, tiếp tục phản ánh đề tài kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đồng thời phản ánh sâu rộng thực tiễn cuộc sống đất nước giai đoạn hòa bình, mặt khác đa dạng hóa đề tài, đi sâu vào bản thể, cá nhân trong mối tương quan với xã hội; lý giải, phản biện, dự báo những vấn đề cấp thiết của cuộc sống (sự xuống cấp đạo đức, tha hóa nhân cách; giữ gìn truyền thống…).

Cùng với đó là việc không ngừng tìm tòi, đổi mới nội dung và phương pháp sáng tác. Bên cạnh phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, nhiều nhà văn đã tìm tòi các phương pháp sáng tác mới (hiện đại, hậu hiện đại...). Nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật đã ra đời, góp phần củng cố bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng nhân cách con người Việt Nam, phản ánh phong phú các vấn đề xã hội và quảng bá hình ảnh văn hóa, đất nước, con người Việt Nam ra thế giới. Công tác lý luận phê bình, quảng bá các tác phẩm văn học nghệ đã có những bước tiến. Bên cạnh phương pháp nghiên cứu truyền thống, nhiều cách tiếp cận mới về thi pháp học, nữ quyền luận, phê bình sinh thái… đã làm phong phú các luận giải, nghiên cứu về các tác phẩm văn học.

Quang cảnh Hội thảoẢnh: Phạm Chính

Hai là, các tham luận đã phân tích làm rõ nguyên nhân của những thành tựu văn học, nghệ thuật Việt Nam đạt được 50 năm qua. Đó là sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và xã hội. Trong bối cảnh giao lưu và hội nhập, văn học, nghệ thuật ở Việt Nam đã có nhiều bước phát triển với việc tiếp thu nhiều lý thuyết văn hóa, văn nghệ, thích ứng với xu hướng nghiên cứu liên ngành; tiếp cận nghệ thuật đương đại, kỹ năng nghề nghiệp toàn cầu, sáng tạo cá nhân. Nhiều chương trình  hỗ trợ các ngành văn hóa, nghệ thuật được quan tâm đầu tư, đặc biệt nghệ thuật truyền thống, văn học dân gian được chú trọng. Các ngành công nghiệp văn hóa như điện ảnh, âm nhạc, thiết kế… đang phát triển nhanh, tạo nhu cầu mới về nhân lực sáng tạo. Ngoài ra, chúng ta có môi trường thuận lợi là thị trường khán giả đông đảo; đội ngũ quản lý, nghệ sĩ đam mê, năng động, góp phần làm phong phú đời sống văn hóa...

Ba là, nhiều tham luận cũng đã nêu lên những hạn chế, khó khăn, thách thức, bất cập hiện nay như: các tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao phản ánh sâu sắc công cuộc đổi mới là khoảng trống cần khỏa lấp; hoạt động lý luận phê bình dù đã đạt được những thành tựu nhất định nhưng chưa theo kịp với sự phát triển, chưa dẫn dắt và đánh giá  hết các giá trị văn học, nghệ thuật; một số ngành, lĩnh vực đang đối mặt với tình trạng thiếu nghệ sĩ kế cận; thị trường sản phẩm, dịch vụ văn học, nghệ thuật chưa phát triển bền vững; thiếu một chiến lược bài bản, đồng bộ quảng bá văn học, nghệ thuật Việt Nam ra thế giới; nguồn nhân lực sáng tạo còn thiếu hụt; còn bất cập trong quy trình đào tạo và chính sách đãi ngộ văn nghệ sĩ… Bên cạnh đó, có tham luận đã chỉ ra việc hệ thống pháp lý chưa hoàn thiện. Nhiều lĩnh vực trọng yếu (văn học; mỹ thuật, nhiếp ảnh; nghệ thuật sắp đặt, đa phương tiện) thiếu luật điều chỉnh. Chính sách hỗ trợ, bảo vệ quyền lợi nghệ sĩ chưa theo kịp thực tiễn.

Các đại biểu và Ban tổ chức chụp ảnh lưu niệm  - Ảnh: Lan Anh

Bốn là, các tham luận gửi tới Hội thảo cũng như các ý kiến trao đổi tại Hội thảo hôm nay đã nêu lên nhiều kiến giải, những đề xuất, khuyến nghị thiết thực. Đó là cần hoàn thiện chính sách về văn học, nghệ thuật  tập trung vào các trụ cột chính: thể chế pháp luật; đổi mới cơ chế quản lý; phát triển nguồn nhân lực; ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số; tăng cường điều phối liên ngành, liên cấp… Đội ngũ văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn học, nghệ thuật cần bám sát hơn nữa vào thực tiễn sinh động của đất nước, phát huy trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, khám phá và sáng tạo, không ngừng, mở rộng phạm vi, chiều sâu chiếm lĩnh hiện thực; lý giải và cắt nghĩa sâu sắc những vấn đề mới, quan trọng, phấn đấu sáng tạo nhiều hơn nữa những tác phẩm hấp dẫn, sâu sắc về nội dung tư tưởng, mới mẻ về hình thức.

Trên cơ sở tiếp thu các ý kiến, tham luận của các đại biểu, Ban tổ chức sẽ tổng hợp báo cáo Bộ VHTTDL, góp phần hoàn thiện chính sách phát triển nền văn học, nghệ thuật nước nhà thời gian tới.

BÍCH NGỌC

;