Đôi điều suy ngẫm về tài năng trẻ trong nghệ thuật Tuồng

Một trích đoạn trong chương trình nghệ thuật đa giác quan "Dấu thiêng Hà Nội" của Nhà hát Tuồng Việt Nam - Ảnh: Liên Hương

 

Mở đầu

Nghệ thuật tuồng là loại hình sân khấu truyền thống của Việt Nam có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời ở cả ba miền đất nước, nghệ thuật sân khấu tuồng truyền thống đã định hình trên cơ sở đúc kết những kinh nghiệm về soạn trò, về trình diễn… để tạo nên những đặc điểm, đặc trưng riêng về nghệ thuật kịch hát của mình. Thời kỳ hoàng kim, có thể nói, tuồng là món ăn tinh thần không thể thiếu được của mỗi người dân Việt Nam. Nghệ thuật tuồng là một trong nhiều loại hình nghệ thuật sân khấu kịch hát độc đáo của dân tộc, một loại hình nghệ thuật giàu tính bác học mang tính nhân văn sâu sắc. Trải qua hàng trăm năm hình thành và phát triển, nghệ thuật tuồng luôn là phương tiện là ngôn ngữ nhằm chuyển tải đến công chúng những giá trị nghệ thuật, giá trị lịch sử, những giá trị về đạo lý làm người, những giá trị đó được hun đúc từ hàng trăm năm lịch sử, như một sức mạnh mềm để Việt Nam hội nhập và phát triển.

Trong thời kỳ đổi mới, những tài năng nghệ thuật sân khấu tuồng luôn xác định ngoài nhiệm vụ bảo tồn nguyên trạng những giá trị nghệ thuật tuồng truyền thống của dân tộc còn phải phát triển nghệ thuật, dàn dựng được nhiều tác phẩm có giá trị và chất lượng, phục vụ nhu cầu thưởng thức của công chúng, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của khán giả. Các nghệ sĩ còn mang trong mình sứ mệnh là những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, họ vừa là phương tiện, là cầu nối để chuyển tải nền tảng tư tưởng của Đảng, Nhà nước, gìn giữ và lan tỏa những giá trị “Chân, Thiện, Mỹ” góp phần vào việc giữ vững sự ổn định chính trị để phát triển kinh tế - xã hội. Thông qua các tác phẩm nghệ thuật, các hình tượng nhân vật lịch sử được tái hiện trong nghệ thuật tuồng, khán giả có thể cảm nhận được truyền thống yêu nước, tinh thần chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.

Nhà hát Tuồng Việt Nam là đơn vị nghệ thuật truyền thống dưới sự quản lý trực tiếp của Bộ VHTTDL có nhiệm vụ chính trị là: “Bảo tồn và phát triển nghệ thuật tuồng truyền thống của dân tộc” dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và trực tiếp là Bộ VHTTDL, nghệ thuật tuồng liên tục được phát triển, nhiều tác phẩm nghệ thuật về đề tài truyền thống, lịch sử, dân gian, hiện đại với các vở diễn về đề tài nước ngoài được xây dựng và biểu diễn được đông đảo công chúng trong nước và ngoài nước đón nhận, nhiều phần thưởng cao quý được Đảng, Nhà nước và các tổ chức quốc tế trao tặng cho Nhà hát Tuồng Việt Nam tại các cuộc thi, liên hoan, các fesival trong nước và quốc tế, đời sống cán bộ nghệ sĩ từng bước được cải thiện. Có được kết quả như vậy cũng là nhờ sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước và trực tiếp là Bộ VHTTDL. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều Nghị quyết, nhiều Chủ trương chính sách đối với Văn hóa nghệ thuật và nhiều Nghị quyết đã đi vào đời sống làm thay đổi diện mạo đời sống Văn hóa nghệ thuật nói chung và nghệ thuật truyền thống nói riêng. Trong đó có nghệ thuật tuồng truyền thống như NQ/TW 05 (khóa VIII), NQ/33, NQ/23 của Bộ Chính trị (khóa X)... Tuy nhiên, đứng trước sự đổi mới của cơ chế thị trường và  chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam, nhiều nghệ sĩ tuồng không khỏi lo lắng làm thế nào thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Nhà nước giao cho, đó là “Bảo tồn và phát triển nghệ thuật tuồng truyền thống của dân tộc”.

Để cùng một lúc thực hiện được hai nhiệm vụ vừa bảo tồn đồng thời vừa phát triển nghệ thuật đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của khán giả là một việc làm vô cùng khó khăn, vất vả, nhất là khi nghệ thuật tuồng là loại hình nghệ thuật kén khán giả, khó xem, công tác đào tạo đội ngũ ngày càng gặp nhiều khó khăn, đơn vị ngày càng thiếu đội ngũ những người làm nghề có tài năng và tâm huyết, sân khấu vắng người xem, chế độ đãi ngộ về tiền lương, tiền công của nghệ sĩ không đảm bảo nhu cầu tối thiểu của cuộc sống, thu nhập chưa tương xứng với công sức bỏ ra trên sân khấu nên không thu hút được tài năng cho nghệ thuật.

 Đây có thể là bức tranh chung của tình hình sân khấu và là thực trạng, thách thức đáng báo động, là bài toán khó chưa có lời giải đáp đối với các đơn vị nghệ thuật truyền thống trong đó có Nhà hát Tuồng Việt Nam, mặc dù trong những năm qua Nhà hát Tuồng Việt Nam luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo, đầu tư của Đảng và Nhà nước trực tiếp là Bộ VHTTDL, Cục Nghệ thuật Biểu diễn nhà hát đã nỗ lực đưa ra nhiều giải pháp, biện pháp để giải quyết và tháo gỡ thực trạng này. Kết quả tuy đã có những tín hiệu tích cực, công tác biểu diễn vẫn được duy trì thường xuyên và khán giả đến xem tuồng ngày càng đông hơn, nhất là khán giả trẻ, nhiều khán giả đã cảm nhận và đánh giá tích cực về nghệ thuật tuồng truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, trong dài hạn nếu chúng ta không có những giải pháp kịp thời, hiệu quả về cơ chế chính sách nhất là chính sách đãi ngộ, chính sách đào tạo đặc thù cho nghệ thuật truyền thống nói chung và nghệ thuật tuồng nói riêng để nâng cao thu nhập và phát triển đội ngũ các nghệ sĩ tuồng thì nghệ thuật tuồng sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn, nhiều nghệ sĩ tuồng không còn tâm huyết với nghề. Nếu không có những tài năng nghệ thuật thì nghệ thuật tuồng sẽ mai một trong lòng khán giả và ngày càng xa dần với công chúng, sớm muộn chúng ta sẽ mất đi một loại hình nghệ thuật truyền thống đã có hàng trăm năm lịch sử hình thành và phát triển.

Thực trạng công tác biểu diễn nghệ thuật tuồng

Trong thời đại 4.0, nghệ thuật tuồng khó có thể tiếp cận với khán giả hiện đại. Những năm gần đây, với sự nỗ lực trong việc thu hút khán giả đến với sân khấu tuồng, Nhà hát Tuồng Việt Nam đã dàn dựng các vở diễn về đề tài cách mạng và hiện đại, để phù hợp với thời đại cuộc sống ngày nay. Tập thể nghệ sĩ cùng êkíp sáng tạo luôn sát cánh để cùng nhau điều chỉnh kịch bản, trăn trở tìm cho ra những trò diễn, những “miếng” tuồng, nhưng phải là tuồng của ngày hôm nay, không rập theo những khuôn mẫu hay mô hình sẵn có của tuồng truyền thống. Xác định tuồng là loại hình nghệ thuật kén khán giả, khó xem, khó tiếp cận, là loại hình nghệ thuật bác học không phải ai cũng xem được và hiểu được tuồng nếu như không có một tri thức và sự hiểu biết nhất định thì khó có thể cảm nhận được cái hay, cái đẹp và sự độc đáo của nghệ thuật tuồng. Để làm tốt nhiệm vụ bảo tồn và phát triển nghệ thuật tuồng thì công tác tiếp cận và đưa nghệ thuật đến khán giả là nhiệm vụ quan trọng. Trong những năm qua, Nhà hát luôn trú trọng và đặt ra kế hoạch mang tính chiến lược và có sự quan tâm đặc biệt, tập thể lãnh đạo, các nghệ sĩ luôn nhận thức rằng nghệ thuật mà không có khán giả thì không thể tồn tại và phát triển được.Vì vậy trong kế hoạch biểu diễn hằng năm, Nhà hát luôn dành một khoản kinh phí từ ngân sách Nhà nước cấp, để bù lỗ cho các hoạt động biểu diễn giới thiệu nghệ thuật. Mục tiêu là nghệ thuật tuồng được thường xuyên hiện diện trước khán giả, nhất là khán giả trẻ. Kết quả đạt được từ 230-240 buổi diễn/năm trước khi chưa có đại dịch COVID-19 là sự cố gắng rất lớn đối với nghệ thuật tuồng.

Tuy số đêm biểu diễn cao nhưng doanh thu rất thấp vì chủ yếu biểu diễn không bán vé, diễn phục vụ chính trị và với các hình thức biểu diễn như: biểu diễn phục vụ các lễ hội tại các địa phương trong dịp xuân mới và được tài trợ của các cá nhân tổ chức, nguồn thu đủ chi phí theo Quyết định 14 của Chính phủ; xây dựng và biểu diễn các chương trình Sử thi trong các sự kiện lễ hội được tổ chức tại các địa phương trong cả nước - đây là nguồn thu chính của đơn vị; biểu diễn tại phố cổ Hà Nội, phố đi bộ vào thứ sáu và chủ nhật hằng tuần, kinh phí do Ban quản lý phố cổ chi trả, mục tiêu là bảo tồn nghệ thuật truyền thống; biểu diễn bán vé tại rạp Hồng Hà, số 51 Đường Thành, Hà Nội cho khách du lịch quốc tế vào thứ hai và thứ năm hằng tuần nhằm quảng bá và từng bước đưa nghệ thuật trở thành sản phẩm du lịch; biểu diễn cho khán giả nước ngoài tại các Fesival quốc tế, các trường quốc tế tại Hà Nội và nhiều nước trên thế giới, mục tiêu chủ yếu là để quảng bá, giao lưu, giới thiệu nghệ thuật tuồng truyền thống của Việt Nam.

Bên cạnh đó là biểu diễn thực hiện nhiệm vụ chính trị, phục vụ khán giả đồng bào vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; biểu diễn chương trình sân khấu học đường hay “Chương trình giới thiệu nghệ thuật với khán giả trẻ”. Đây là mục tiêu quan trọng, mang tính chiến lược đó là đào tạo khán giả, chương trình này cũng chủ yếu phục vụ, thực hiện theo Đề án được Bộ VHTTDL phê duyệt đầu tư hay các tổ chức phi Chính phủ tài trợ... hình thức biểu diễn, giao lưu tương tác với khán giả và giới thiệu chuyên sâu về nghệ thuật tuồng, mục đích để khán giả trẻ hiểu về giá trị độc đáo và cảm nhận cái hay cái đẹp của nghệ thuật tuồng truyền thống của dân tộc...

Thực trạng về chính sách đãi ngộ nghệ sĩ tuồng

Do đặc thù là nghệ thuật truyền thống, nhiều nghệ sĩ rất tài năng có nhiều người được Đảng và Nhà nước phong tặng là NSND, NSƯT, tài năng trẻ nhưng do đặc thù đào tạo mang tính truyền nghề, đào tạo từ nhỏ tuổi, trình độ đào tạo từ trung cấp, theo quy định việc xếp lương khởi điểm cho các nghệ sĩ trẻ mới ra trường hay nghệ sĩ có thâm niên lâu năm trong nghề ở trình độ trung cấp vào hệ số rất thấp là: 1,86 và là diễn viên hạng 4, thu nhập tiền lương cộng thêm ưu đãi nghề (thanh sắc) theo Quyết định 14 của Chính phủ hằng tháng trừ bảo hiểm các nghệ sĩ trẻ hơn 4 triệu đồng, thấp hơn lương tối thiểu vùng, nếu đi diễn thì được thêm bồi dưỡng vai chính là 200.000 đồng/đêm, vai chính thứ 160.000 đồng, vai phụ (quân, thể nữ) 120.000 đồng, tiền luyện tập là 80.000, 60.000, 50. 000 đồng/ 1 buổi, còn đối với NSND và NSƯT cũng vậy, trình độ đào tạo từ trung cấp nên cũng xếp vào diễn viên hạng 4 và thụ hưởng ưu đãi nghề, bồi dưỡng luyện tập và biểu diễn theo vai diễn và Quyết định 14 của Chính phủ, riêng các nghệ sĩ lâu năm trong nghề  thì cộng thêm % lương vượt khung, hệ số lương tối đa của diễn viên hạng 4 là 4,06. Thực trạng trên không chỉ tồn tại riêng đối với Nhà hát Tuồng Việt Nam mà là tất cả các nghệ sĩ tuồng của cả nước.

Tiếp theo là khó khăn ở việc thu và chi. Nếu ở nhóm 3, Nhà hát sẽ đảm bảo được từ 15% nguồn kinh phí ngân sách cấp được tự chủ trong việc chi tiêu ngân sách. Từ tháng 7 năm 2024 do đơn vị có nguồn thu chi chiếm 4,6% so với số chi của đơn vị, nên Nhà hát Tuồng Việt Nam phải xuống nhóm 4 và các chi tiêu phải chi tiêu theo đúng quy định của Nhà nước. Như vậy, một diễn viên đi diễn, tiền bồi dưỡng không đủ chi ăn uống, sinh hoạt trên đường đi. Với thu nhập như vậy thì rất khó thu hút được tài năng, giữ chân được nghệ sĩ để họ làm nghề. Vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến việc thu hút nguồn lực kế cận, mà còn ảnh hưởng đến chất lượng nghệ thuật và khó khăn cho công tác bổ nhiệm cán bộ vì muốn bổ nhiệm cán bộ tiêu chuẩn phải có trình độ đại học. Thực tế là nhiều NSND, NSUT có tay nghề cao nhưng trình độ đào tạo chỉ là Trung cấp và đối tượng này là những người giỏi tay nghề và có tài năng, tham gia nhiều vai chính, là diễn viên chủ chốt thời gian biểu diễn nhiều, không còn thời gian để đi học nâng cao trình độ đào tạo để nâng hạng, nâng ngạch.

Thực trạng về đào tạo tài năng cho nghệ thuật tuồng

Việc xây dựng, phát triển và đào tạo đội ngũ diễn viên của Nhà hát Tuồng Việt Nam trong những năm qua đều thực hiện theo hình thức liên kết đào tạo, gần đây nhất có Dự án liên kết đào tạo lớp Trung cấp diễn viên, nhạc công nghệ thuật tuồng niên khóa 2014-2018. Đây là mô hình đào tạo tài năng nghệ thuật tuồng được cho là rất thành công và chất lượng. Tuy nhiên, nhìn lại kinh nghiệm cho thấy nếu không có Dự án Liên kết đào tạo thì công tác phát triển đội ngũ kế cận cho nghệ thuật Tuồng hiện trạng và tương lai sẽ không thực hiện được và sẽ tiếp tục bị thiếu hụt. Nguyên nhân nhiều năm qua Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội không chủ động tuyển sinh được lớp diễn viên, nhạc công cho nghệ thuật tuồng, lý do có thể một phần do nhu cầu thấp hay do tính hấp dẫn của loại hình nghệ thuật và do cơ chế chính sách về đào tạo đã có nhiều thay đổi ví dụ như: Luật Giáo dục đào tạo đã được ban hành đó là việc đào tạo nghề theo hệ Trung cấp, Cao đẳng nghệ thuật trong đó có nghệ thuật tuồng không thuộc thẩm quyền của Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội mà chuyển sang hệ thống đào tạo thuộc các trường nghề do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quản lý. Mặc dù Chính phủ đã ban hành văn bản đặc thù, cho phép các trường đại học đào tạo nghệ thuật được phép đào tạo nghề cho nghệ thuật truyền thống nhưng với nhiều vướng mắc chưa được tháo gỡ nên các cơ sở đào tạo chưa triển khai thực hiện được. Trường Trung cấp Nghệ thuật Xiếc và Tạp kỹ Việt Nam có mã ngành, nghề Tạp kỹ có thể đào tạo được lớp Trung cấp diễn viên và nhạc công tuồng nhưng thời gian đào tạo là 2 năm thì hơi ngắn, 5 năm thì lại hơi dài.

Về trình độ đào tạo, kinh nghiệm cho thấy trong 65 năm hình thành và phát triển Nhà hát Tuồng Việt Nam, việc đào tạo diễn viên, nhạc công cho nghệ thuật tuồng chỉ nên đào tạo hệ Trung cấp 4 năm là phù hợp nhất vì tính chất truyền nghề bắt tay chỉ ngón và đào tạo từ nhỏ, uốn nắn dễ dàng và hiệu quả hơn. Thực tế hiện nay Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội cũng chưa xây dựng khung pháp lý để đào tạo hệ đại học cho nghệ thuật tuồng, dẫn đến nhiều năm trước cũng như hiện tại không đào tạo nghệ thuật tuồng theo hệ Đại học và khi không đào tạo trình độ Đại học cho nghệ thuật tuồng thì việc mở lớp liên thông để nâng trình độ Đại học cho nghệ thuật tuồng như chèo, cải lương, múa rối, cũng không thể thực hiện được.

Từ những khó khăn trên, để có đội ngũ kế cận, Nhà hát Tuồng Việt Nam đã phải phối hợp với nhà trường xây dựng các đề án liên kết đào tạo, đào tạo có địa chỉ, đào tạo tại chỗ và trong quá trình đào tạo để đem lại hiệu quả thì ngoài những chính sách chung của Chính phủ đã ban hành, Nhà hát còn đưa ra những chính  sách ưu đãi riêng, nhằm thu hút tài năng như: Tiếp nhận đầu ra, cử nghệ sĩ của Nhà hát có tay nghề cao, sang giảng dạy, phối hợp quản lý; Hỗ trợ thêm kinh phí để học sinh không phải đóng học phí, xây dựng cơ sở vật chất cho các cháu có chỗ ở, không phải đi thuê nhà và thuận lợi trong việc quản lý các cháu, khi ra trường tất cả các cháu được tuyển dụng về Nhà hát.....

 Đội ngũ biên kịch, đạo diễn, biên đạo múa, nhạc sĩ (gọi chung là “đội ngũ sáng tạo” cho nghệ thuật tuồng cũng rất thiếu, đặc biệt là biên kịch cho nghệ thuật tuồng vì viết tuồng phải tuân thủ nguyên tắc hết sức nghiêm ngặt và rất khó viết, nhuận bút không cao. Vì vậy, nhiều năm không có sinh viên theo học và nhà trường không mở được lớp đào tạo tác giả, biên kịch cho kịch hát truyền thống, dẫn đến không có người để nhà hát tuyển dụng. Thực tế hiện nay một nhà hát ở Trung ương như Nhà hát Tuồng Việt Nam không thể tuyển được một tác giả nào có tay nghề để viết, hay chuyển thể kịch bản tuồng...

Một số kiến nghị và đề xuất

Để xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong tình hình mới như đúng tinh thần của Nghị quyết thì cần phải có sự vào cuộc quyết liệt để tháo gỡ những khó khăn đang tồn tại và các cấp các ngành, các cơ quan Đảng và Chính phủ từ Trung ương đến địa phương cần thực hiện một cách nghiên túc và nhận thức một cách đầy đủ về vai trò của văn hóa trong đó có văn hóa truyền thống để thể chế hóa các Nghị quyết của Đảng đã ban hành và có hành động, việc làm cụ thể để các cơ chế đặc thù và cơ chế chính sách đãi ngộ, chính sách đào tạo đội ngũ đối với Văn hóa nghệ thuật, nhất là nghệ thuật truyền thống.

Cần quan tâm và có chính sách đặc thù về việc nâng ngạch, bậc, bồi dưỡng diễn viên cho nghệ sĩ tuồng vì áp dụng việc nâng hạng, nâng ngạch mà căn cứ vào trình độ đào tạo Đại học để xếp lương hay nâng hạng thì nghệ sĩ tuồng từ NSND đến NSƯT hay tài năng trẻ chỉ có trình độ Trung cấp, họ sẽ không bao giờ thay đổi được ngạch bậc và hệ số lương và suốt cuộc đời làm nghệ thuật, họ vẫn chỉ là diễn viên hạng 4 và thêm hệ số lương vượt khung. Một khi lương thấp, thu nhập không đảm bảo, đời sống khó khăn thì nghệ sĩ sẽ phải làm thêm nghề tay trái, sẽ không toàn tâm, toàn ý để cống hiến, không trú tâm vào làm nghề, thậm chí rất nhiều nghệ sĩ có tay nghề cao bỏ hẳn nghề đi tìm nghề khác có thu nhập cao hơn. Như vậy, trong công tác đào tạo nguồn lực kế cận sẽ không thu hút được thí sinh có năng khiếu, tài năng nghệ thuật để phát triển nguồn nhân lực cho tương lai.

Cần có chế độ đãi ngộ phù hợp để phát triển những tài năng trẻ nghệ thuật Tuồng trong việc xếp ngạch bậc lương, nâng hạng (ngạch), đặc cách cho các nghệ sĩ có thành tích nghệ thuật như: Huy chương Vàng, Bạc trong các Cuộc thi, Liên hoan, các tài năng trẻ... Từ đó mới khuyến khích nghệ sĩ trẻ say mê gắn bó giữ gìn nghệ thuật tuồng truyền thống và thu hút được lực lượng trẻ đến học nghề.

Quan tâm động viên, hỗ trợ và đầu tư nhiều hơn nữa cho các hoạt động biểu diễn đặc biệt và đặc thù này bằng cách nâng cao bồi dưỡng, thu nhập, và điều chỉnh chế độ ưu đãi nghề, chế độ bồi dưỡng theo Quyết định 14 của Chính phủ, Thông tư, Nghị định 21/CP về chế độ nhuận bút cho tác giả nhất là nhuận bút cho tác giả viết Tuồng vì chế độ quá thấp so với công sức của họ bỏ ra khi viết hay chuyển thể một vở tuồng.

Tiếp tục đào tạo hệ Trung cấp nghệ thuật Tuồng và có cơ chế đặc thù về đào tạo đối với các trường đào tạo bậc đại học nghệ thuật để đào tạo Trung cấp nghề cho nghệ thuật tuồng vì người diễn viên tuồng vừa phải hát, múa và biểu diễn, nghệ sĩ Tuồng tài năng thực sự cần hội đủ các yếu tố như: “thanh - sắc - thục”, “ tinh - khí - thần” và diễn viên tuồng phải được lựa chọn và đào tạo từ nhỏ để hát hay, múa giỏi và muốn biểu diễn tốt thì phải luyện tập rất công phu  điều cơ bản nhất là tuổi nghề mới dài, mới thực sự có những tài năng trẻ cho nền nghệ thuật truyền thống của dân tộc.

Đào tạo hệ Đại học liên thông nghệ thuật tuồng, tạo điều kiện cho các diễn viên tuồng có tay nghề được tham gia lớp học liên thông, có đầy đủ bằng cấp để được nâng hạng, ngạch, cải thiện mức lương và có thể trang trải được cuộc sống gia đình hằng ngày.

Bồi dưỡng, đào tạo “Tài năng trẻ - nguồn lực sáng tạo và phát triển văn hóa nghệ thuật” là việc làm quan trọng, đặc biệt, Bộ VHTTDL cần quan tâm đặc biệt và chỉ đạo quyết liệt đối với các cơ sở đào tạo thuộc Bộ quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ cho nền nghệ thuật truyền thống nói chung và nghệ thuật tuồng truyền thống nói riêng của dân tộc. Nhà nước cần có cơ chế đào tạo tuyển chọn, sử dụng và cử đi học chuyên ngành về văn hóa, nghệ thuật truyền thống trong nước và cả ở nước ngoài đối với những học sinh, sinh viên còn trẻ, có tài năng và tâm huyết với sự nghiệp văn hóa nghệ thuật dân tộc là cực kỳ cần thiết, cần thiết không kém gì những lĩnh vực công nghệ cao và các ngành kinh tế. Vì nghệ thuật tuồng truyền thống là vốn quý của dân tộc Việt Nam, niềm tự hào của mỗi nghệ sĩ sân khấu truyền thống khi mang sản phẩm văn hoá truyền thống giới thiệu ra thế giới. Nhiệm vụ bảo tồn và phát triển văn hoá truyền thống là sứ mệnh trên vai của các nhà lãnh đạo nghệ thuật văn hoá truyền thống, của các nghệ sĩ và của khán giả cả nước nói chung, quyết định sự tồn tại và phát triển, công nhận và tôn vinh tài năng của họ. Sự công nhận tích cực có thể là động lực mạnh mẽ và có thể góp phần phát triển bản sắc và tiếng nói của một nghệ sĩ trẻ.

Tạo cơ hội và sân chơi cho các tài năng trẻ như: Khuyến khích thử nghiệm và chấp nhận rủi ro: tạo môi trường khuyến khích các nghệ sĩ trẻ chấp nhận rủi ro, thử nghiệm những ý tưởng mới và khám phá những cách tiếp cận độc đáo đối với nghệ thuật của họ; Cung cấp cơ hội học tập: cung cấp các chương trình giáo dục hoặc hội thảo, bao gồm các buổi nói chuyện với nghệ sĩ, các buổi xây dựng kỹ năng hoặc các chương trình cố vấn để nâng cao sự phát triển nghệ thuật và nghề nghiệp của các nghệ sĩ trẻ; Đóng góp vào sự gắn kết của cộng đồng: khuyến khích các nghệ sĩ trẻ gắn kết với cộng đồng của họ thông qua nghệ thuật. Điều này có thể bao gồm việc tạo ra các dự án có tác động tích cực đến cộng đồng địa phương hoặc đề cập các vấn đề xã hội thông qua biểu đạt nghệ thuật; Đóng góp vào bức tranh toàn cảnh văn hóa: phát triển bức tranh toàn cảnh văn hóa bằng cách giới thiệu và hỗ trợ tác phẩm của các nghệ sĩ trẻ. Mục đích là góp phần làm phong phú và đa dạng nền văn hóa nghệ thuật.

Kết luận

Hội nhập quốc tế phải giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam, trong đó có nền nghệ thuật tuồng truyền thống đặc sắc của dân tộc. Việc đào tạo xây dựng đội ngũ những tài năng để giữ gìn, bảo tồn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là rất cần thiết. Vì văn hóa dân tộc chính là sức mạnh mềm, là yếu tố thiết yếu để dân tộc ta hội nhập và phát triển “Hòa nhập chứ không hòa tan”.

Với hơn 20 năm làm nghề biểu diễn, trong đó có 5 năm làm công tác phụ trách chuyên môn Đoàn Thể nghiệm của Nhà hát Tuồng Việt Nam, với kinh nghiệm từ một Trưởng đoàn Nghệ thuật Thể nghiệm - Nhà hát Tuồng Việt Nam, một đơn vị đang gặp khó khăn nhất trong 12 đơn vị trực thuộc Bộ VHTTDL, trên đây là một số suy nghĩ, trăn trở về những vấn đề về thực trạng của các nghệ sĩ tuồng và một số kiến nghị, giải pháp. Mong rằng, nghệ thuật tuồng và đặc biệt các tài năng trẻ của nghệ thuật tuồng sẽ được quan tâm nhiều hơn để từ đó góp phần giữ gìn và phát huy nghệ thuật tuồng truyền thống đặc sắc của dân tộc.

                                   

Tham luận tại Hội thảo “Tài năng trẻ - nguồn lực sáng tạo và phát triển văn hóa, nghệ thuật” do Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật tổ chức tháng 11-2024.

 

 

 

Ths. NGUYỄN THỊ LỘC HUYỀN

NSƯT, Nhà hát Tuồng Việt Nam

;