Bàn thảo giải pháp để thực hiện thành công Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030

Sáng 27-9, tại Hà Nội, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (Bộ VHTTDL) đã tổ chức Hội thảo “Thực hiện chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 – những vấn đề đặt ra từ thực tiễn” với sự tham dự của gần 100 đại biểu.

Tham dự Hội thảo có: NSNA Trần Thị Thu Đông, đại biểu Quốc hội, Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, Chủ tịch Hội NSNA Việt Nam; TS Ngô Phương Lan, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận, Phê bình Văn học, Nghệ thuật Trung ương, Chủ tịch Hiệp hội Xúc tiến phát triển Điện ảnh Việt Nam (VFDA); Lãnh đạo một số Cục, Vụ, Viện, bảo tàng, trường đại học, nhà hát thuộc Bộ VHTTDL; lãnh đạo  Sở VHTT các tỉnh: Nghệ An, Ninh Bình, ban quản lý di tích một số địa phương và các chuyên gia, nhà nghiên khoa học cùng đông đảo đại diện các cơ quan báo chí Trung ương và Hà Nội.

Chủ trì Hội thảo là Ban Lãnh đạo Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật: Quyền Tổng biên tập, Thạc sĩ Hoàng Hà; các Phó Tổng biên tập: Ngô Thị Minh Nguyệt và Đặng Xuân Mã.

Quang cảnh hội thảo

Phát biểu đề dẫn Hội thảo, Quyền Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật Hoàng Hà cho biết: Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chăm lo đến lĩnh vực văn hóa trong sự nghiệp cách mạng cũng như xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để  văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

Nhằm tạo khung pháp lý cho phát triển văn hóa, ngày 12-11-2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 tại Quyết định số 1909/QĐ-Ttg, với mục tiêu chung là:

 Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam toàn diện, phù hợp với xu thế thời đại, yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những tác động to lớn với kinh tế, xã hội và con người của thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng...; Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền, các đối tượng chính sách và yếu thế, chú trọng phát triển văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số;  Hoàn thiện cơ chế thị trường trong lĩnh vực văn hóa gắn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa có tiềm năng, lợi thế;  Có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, huy động nguồn lực để phát triển văn hóa, con người.

Chiến lược cũng đề ra 8 mục tiêu cụ thể; 11 nhiệm vụ và giải pháp lớn với các chương trình, đề án văn hóa nhằm triển khai thực hiện có hiệu quả yêu cầu đề ra.

Quyền Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật Hoàng Hà phát biểu đề dẫn Hội thảo

Trong thời gian qua, triển khai thực hiện Kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021 và Chiến lược phát triển Văn hóa đến năm 2030, lĩnh vực văn hóa đã được cả hệ thống chính trị tập trung xây dựng, nâng cao rõ rệt cả về nhận thức và hành động. Các địa phương đã tăng cường nguồn lực đầu tư cho văn hóa; nhiều di sản văn hóa được ghi danh, xếp hạng, tu bổ gắn kết với phát triển du lịch; các thiết chế văn hóa được tăng cường; công tác xây dựng môi trường văn hóa cơ sở được triển khai sâu rộng; tinh thần nhân ái, nghĩa đồng bào, những giá trị nhân văn tốt đẹp của con người Việt Nam trong dịch bệnh, khó khăn được lan tỏa, nhân lên… Trong thời gian qua, Bộ VHTTDL  cũng đã xây dựng Kế hoạch hành động thực hiện Kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc và Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 (giai đoạn 2023-2025) với nhiều chương trình, đề án nhiệm vụ trọng tâm, có ý nghĩa.  

Sau gần 2 năm triển khai, việc thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần xây dựng và phát triển bền vững đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình triển khai thực hiện Chiến lược, cũng đã xuất hiện những hạn chế, bất cập, về nhận thức, nguồn lực, chính sách, đào tạo… Những vấn đề đặt ra của văn hóa và phát triển hiện nay đang đòi hỏi cần phải được phân tích, giải quyết thấu đáo trên cơ sở mối tương quan, biện chứng với phát triển kinh tế, xã hội.

"Nhằm tập hợp  ý kiến của các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu khoa học, những người thực hành văn hóa, về những vấn đề đặt ra từ thực tiễn của quá trình thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030, từ đó đúc rút, và bổ sung cho công tác phát triển lý luận về văn hóa, cũng như đề xuất những giải pháp thiết thực góp phần hoàn thiện chính sách văn hóa, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật - cơ quan nghiên cứu, thông tin lý luận của Bộ VHTTDL  tổ chức Hội thảo khoa học “Thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 - Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn”- ông Hoàng Hà nhấn mạnh.

Ban Tổ chức đã nhận được 36 bài tham luận đến từ các cơ quan quản lý nhà nước trực thuộc Bộ VHTTDL; Sở VHTTDL, Sở VHTT  một số tỉnh, thành; viện nghiên cứu; ban quản lý di tích; trường đại học; bảo tàng; cơ quan truyền thông… Các đại biểu tại hội thảo đã tập trung thảo luận và làm rõ các vấn đề sau:  Đánh giá thực trạng triển khai Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 ở trung ương và địa phương (ưu điểm, hạn chế);  Phân tích nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế; vấn đề đặt ra từ thực tiễn; bài học kinh nghiệm rút ra trong thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 trong thời gian qua;  Đề xuất giải pháp phát huy nguồn lực xã hội, xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam toàn diện, thực hiện thành công Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030.

Xây dựng môi trường văn hóa cơ sở: coi trọng vấn đề nêu gương

Phát biểu tham luận tại Hội thảo, Phó Cục trưởng Cục Văn hóa cơ sở (Bộ VHTTDL) Vi Thanh Hoài cho biết: Trong thời gian qua, hoạt động văn hóa cơ sở đã có nhiều điểm sáng, đặc biệt sau Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, mặc dù có nhiều khó khăn, nhưng toàn ngành Văn hóa đã quyết tâm, triển khai công tác xây dựng môi trường văn hóa, với phương châm chọn cơ sở làm địa bàn trọng tâm để tác nghiệp, bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa. Đặc biệt, năm 2022, Bộ VHTTDL đã tổ chức lễ phát động tại Nghệ An với chủ đề công tác năm “Xây dựng môi trường văn hóa cơ sở và công tác tổ chức cán bộ”. Vừa qua, dịp kỷ niệm 78 năm ngày truyền thống ngành Văn hóa, đã có 78 gương điển hình tập thể và cá nhân được tôn vinh, đó là niềm tự hào của các cán bộ làm trong ngành Văn hóa, góp phần lan tỏa cách làm văn hóa ở các cơ sở, địa phương trong việc xây dựng môi trường văn hóa.

Phó Cục trưởng Cục VHCS Vi Thanh Hoài phát biểu tham luận

Bên cạnh đó, nhiều cơ quan ở Trung ương, địa phương đã tổ chức nhiều Hội thảo, Hội nghị liên quan đến thể chế, chính sách, nguồn nhân lực cho phát triển văn hóa… Đồng thời, nhiều cơ quan đã xây dựng các tiêu chí về môi trường văn hóa trong Bộ, ngành và triển khai thực hiện…

Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận những vấn đề tồn tại như: việc hoàn thiện các thiết chế văn hóa thể thao ở các địa phương có chất lượng chưa cao, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Trang thiết bị, không gian sinh hoạt văn hóa để người dân được hưởng thụ văn hóa còn hạn chế; chưa kiểm soát được việc thương mại hóa trong sản xuất kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ văn hóa; còn lúng túng trong việc xử lý được gọi là “văn hóa mới” dẫn đến  một số hiện tượng lệch chuẩn, phản văn hóa, đã gây tác động xấu đến môi trường văn hóa; bên cạnh đó một số cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm đến việc xây dựng môi trường văn hóa…

Từ thực trạng được nêu, Phó Cục trưởng Cục VHCS Vi Thanh Hoài đã đưa ra một số biện pháp nhằm xây dựng môi trường văn hóa trong thời gian tới: Tiếp tục triển khai có hiệu quả các quan điểm, chủ trương, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Kết luận số 76/KL/TW ngày 4/6/2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030, Kết luận của Tổng bí thư tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021; đề xuất các địa phương cũng như các cơ quan quản lý ở Trung ương và địa phương cần chú ý hơn về nguồn lực cho văn hóa, bao gồm: nguồn nhân lực, nguồn lực tài chính cho văn hóa, đây là hai điều kiện cần và đủ để đầu tư cho văn hóa đảm bảo chất lượng và có hiệu quả trong thời gian tới.

Đồng thời, cần tổ chức có hiệu quả nhiệm vụ xây dựng và triển khai hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với việc giữ gìn, phát triển gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới, để các hệ giá trị thấm sâu vào đời sống, trở thành nền tảng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa trong thời gian tới. Một trong những vấn đề quan trọng đó là nêu gương,  đã được đúc kết trong thực tiễn, với việc sống và làm việc có trách nhiệm, thực thi pháp luật nghiêm ở tất cả các cấp, ngành, lĩnh vực là một trong những giải pháp hiệu quả trong việc xây dựng môi trường văn hóa…

Triển khai đồng bộ các chính sách, các chương trình, đề án, dự án về phát triển VHTTDL vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Trình bày tham luận về chủ đề “Công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số trong giai đoạn hiện nay”, Vụ trưởng Vụ Văn hóa dân tộc (Bộ VHTTDL) Nguyễn Thị Hải Nhung cho biết: Chương trình mục tiêu phát triển văn hóa trước đây và Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 -2025 đã được Bộ VHTTDL triển khai thực hiện có hiệu quả góp phần quan trọng nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa các dân tộc, đặc biệt là các vùng khó khăn, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số…

Vụ trưởng Vụ Văn hóa dân tộc Nguyễn Thị Hải Nhung: Cần triển khai đồng bộ các chính sách, các chương trình, đề án, dự án về phát triển VHTTDL vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Tuy nhiên, việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các DTTS mặc dù đạt được rất nhiều kết quả nhưng trên thực tế công tác này vẫn còn những khó khăn, bất cập. Nguyên nhân là do điều kiện kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí không đồng đều nên việc huy động nguồn lực vật chất của chính quyền địa phương vùng này và của chính bản thân đồng bào trong việc duy trì, bảo vệ những giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể là rất khó khăn…

Đưa ra các đề xuất, giải pháp, Vụ trưởng Vụ Văn hóa dân tộc Nguyễn Thị Hải Nhung cho rằng, cần tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và của người dân về công tác bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trên cả nước…; tập trung tham mưu các giải pháp và nguồn lực cần thiết để thực hiện Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030… ; xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các  cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tham mưu về công tác dân tộc trong việc triển khai thực hiện đồng bộ các chính sách, các chương trình, đề án, dự án về phát triển VHTTDL vùng đồng bào dân tộc thiểu số…; hỗ trợ nâng cao mức hưởng thụ văn hóa cho đồng bào các dân tộc thiểu số thông qua việc xây dựng, tổ chức phong trào, văn nghệ, khuyến khích các chương trình hoạt động văn hóa, nghệ thuật phục vụ vùng sâu, vùng xa, biên giới vùng dân tộc thiểu số; xây dựng các thiết chế văn hóa, thể thao cấp xã, thôn, bản để người dân có điều kiện hơn đến tham gia sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa, thể thao…

Tăng cường quảng bá hình ảnh đất nước về con người Việt Nam với bạn bè quốc tế

Với tham luận “Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, những kết quả đạt được, vấn đề đặt ra và phương hướng, giải pháp trong 10 năm tới”, Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế (Bộ VHTTDL) Nguyễn Phương Hòa cho biết: các vấn đề quốc tế được đề cập tại Đề cương về văn hóa về Việt Nam năm 1943 – Cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa, vạch ra thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, phương pháp luận duy vật biện chứng, đặt nền móng lý luận cho nhiều vấn đề quan trọng của văn hóa việt Nam như chức năng, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển xã hội, mối quan hệ  giữa văn hóa và kinh tế, chính trị… Sau gần 40 năm Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, công tác giao lưu, hợp tác, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, ngày càng được tiến hành chủ động, tích cực, phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, đa dạng về hình thức, phương thức, đối tác và có nhiều chuyển biến về chất lượng. Tiến trình quan trọng này giúp bổ sung những giá trị về tiến độ của của văn hóa, văn minh thế giới, làm giàu văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội, quảng bá, giới thiệu văn hóa, con người, du lịch, thể thao đến với bạn bè quốc tế; tăng cường giao lưu, sự hiểu biết lẫn nhau, hòa bình, hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và các quốc gia trên thế giới…

Đặc biệt một số kết quả của công tác hội nhập về VHTTDL đã đạt được đó là: hoàn thiện thể chế, chính sách; làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương, hợp tác đa phương – khẳng định vai trò thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại; tăng cường quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam với bạn bè quốc tế; tích cực tham gia và nâng cao chất lượng, thành tích trong các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, du lịch, văn hóa.. ở khu vực và thế giới.

Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế (Bộ VHTTDL) Nguyễn Phương Hòa: Một trong những bài học kinh nghiệm quý báu đúc kết trong quá trình cách mạng và phát triển đất nước của dân tộc ta đó là kết hợp sức mạnh quốc tế

Về một số vấn đề đặt ra đối với công tác hội nhập quốc tế về văn hóa, bà Nguyễn Phương Hòa đã thẳng thắn đánh giá, đối với các hoạt động giao lưu, hợp tác, hội nhập quốc tế về VHTTDL, Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phù ban hành tại Quyết định số 40/QĐ-TTG ngày 7/1/2016 chưa phát huy được vai trò chỉ đạo, định hướng, do là phép cộng của tất cả các lĩnh vực nên không thể đi sâu vào từng lĩnh vực chuyên ngành. Đồng thời,  chiến lược không kèm các đề án được phân bổ ngân sách cụ thể nên khó được triển khai trên thực tiễn; ngân sách, kinh phí tổ chức các hoạt động hội nhập quốc tế về VHTTDL còn hạn chế, kể cả ngân sách cử đoàn ra thực hiện các cam kết quốc tế, nghĩa vụ của quốc gia thành viên…; các chương trình nghệ thuật chất lượng cao, đặc sắc, các sản phẩm văn hóa mang tính hiện đại, công nghệ cao phục vụ quảng bá, giới thiệu đất nước, con người Việt Nam và tiến trình hội nhập quốc tế còn thiếu. Chưa có các sản phẩm, dịch vụ văn hóa xứng tầm để thâm nhập và xuất khẩu ra các thị trường nước ngoài…

Đưa ra các giải pháp cho công tác hội nhập quốc tế về văn hóa trong thời gian tới, Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế Nguyễn Phương Hòa chia sẻ: Một trong những bài học kinh nghiệm quý báu đúc kết trong quá trình cách mạng và phát triển đất nước của dân tộc ta đó là kết hợp sức mạnh quốc tế. Hiện nay, trước sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và quá trình toàn cầu hóa, quốc tế hóa mạnh mẽ, càng cần đẩy mạnh hội nhập quốc tế để tránh nguy cơ tụt hậu, bắt kịp với xu thế thời đại, tận dụng cơ hội để đưa đất nước tiến lên…; cần khẩn trương xây dựng và triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia về chấn hưng, phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045, Chiến lược Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045, trong đó đặt hội nhập quốc tế là một nhiệm vụ quan trọng, với các chương trình, đề án có ngân sách thực hiện, tạo cú huých, thúc đẩy, dẫn dắt các ngành công nghiệp văn hóa, sáng tạo trong nước phát triển, tạo ra các thương hiệu sản phẩm cụ thể. Cần đẩy mạnh tiến trình hội nhập nhằm tiếp thu các tiến bộ khoa học công nghệ, đặc biệt là các thành tựu của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 nhằm ứng dụng hiệu quả vào quá trình phát triển đất nước nhanh và bền vững. Cần phát triển về văn hóa số;  đầu tư cho nguồn nhân lực chất lượng cao làm công tác hội nhập quốc tế…; đẩy mạnh hợp tác song phương về văn hóa và hợp tác đa phương về văn hóa; tăng cường quảng bá hình ảnh đất nước về con người Việt Nam với bạn bè quốc tế…

Kiện toàn  hệ thống pháp luật để tối ưu hóa các nguồn lực trong phát triển các ngành công nghiệp văn hóa

Trình bày tham luận “Xây dựng chiến lược các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030”, PGS, TS Nguyễn Thị Thu Phương, Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam nhấn mạnh: các ngành công nghiệp văn hóa mang tính liên ngành, xuyên ngành rất cao, đây là ngành phải sử dụng sức sáng tạo trong sự chuyển hóa các nguồn tài nguyên văn hóa, giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, sức sáng tạo của con người trong các giá trị đương đại, phải gắn với quá trình toàn cầu hóa, công nghệ, bản quyền. Đây là một trong những ngành cần phải có sự đầu tư đồng bộ của toàn bộ lực lượng trong xã hội, chứ không phải ngành chỉ thuộc Bộ VHTTDL. Ở Việt Nam, xác định có 12 ngành công nghiệp văn hóa trải dài quản lý trong các Bộ khác nhau, vì vậy đây là một chiến lược khó, nhưng sẽ  có sự thay đổi lớn trong sự phát triển của đất nước. Đồng thời, chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa sẽ giúp cho Việt Nam bảo vệ, phát huy được các biểu đạt đa dạng về văn hóa và tạo ra được sự ổn định về mặt tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững. Đặc biệt, đây là ngành sẽ thúc đẩy bình đẳng giới, quan tâm đến những người yếu thế như phụ nữ và trẻ em;  góp phần lan tỏa, kết nối trong quan hệ hợp tác quốc tế…

PGS, TS Nguyễn Thị Thu Phương, Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam nhấn mạnh, cần có sự kết hợp 3 nhà: nhà nước - nhà đầu tư - nhà sáng tạo

Sau hơn 7 năm thực hiện Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; sau hơn 2 năm triển khai Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030, đến nay, theo thống kê của Cục bản quyền tác giả,  các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp khoảng 4% GDP, chiếm 6,1% lực lượng lao động của cả nước, điều này cho thấy mức trung bình so với các nước trên thế giới, Việt Nam là một quốc gia ở mức tầm trung về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Tuy nhiên, với số liệu này vẫn chưa phản ánh được dư địa thực sự của Việt Nam, khi đất nước ta được đánh giá là một trong những quốc gia vô cùng giàu có về tài nguyên văn hóa, đồng thời Việt Nam cũng là một quốc gia có lực lượng lao động trẻ đang ở thời điểm dân số vàng...

Đề cập đến các giải pháp nhằm phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, PGS, TS Nguyễn Thị Thu Phương cho rằng: cần kiện toàn hơn nữa về hệ thống pháp luật để tối ưu hóa các nguồn lực trong phát triển các ngành công nghiệp văn hóa; không nên nhận thức các ngành công nghiệp văn hóa chỉ thuộc Bộ VHTTDL quản  lý hoặc chỉ ưu tiên những lĩnh vực do ngành VHTTDL quản lý… ; cần có sự kết hợp mô hình 3 nhà: Nhà nước có vai trò tạo cơ sở pháp lý, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng; nhà đầu tư – với việc thay đổi về luật sẽ khuyến khích các nhà đầu tư tập trung cho phát triển các ngành công nghiệp văn hóa; nhà sáng tạo bao gồm các nhà sáng tạo, nghệ nhân, người thực hành về công nghiệp văn hóa…; cần phải có các quỹ điện ảnh, du lịch, sáng tạo… từ đó sẽ tạo ra sự thay đổi thực sự của các ngành công nghiệp văn hóa…

Cần gắn kết điện ảnh với các hoạt động của lĩnh vực văn hóa, kinh tế, ngoại giao

Với tham luận “Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030: những vấn đề đặt ra từ thực tiễn hoạt động điện ảnh”, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình VHNT Trung ương, Chủ tịch Hiệp hội Xúc tiến phát triển điện ảnh Việt Nam, TS Ngô Phương Lan đã chia sẻ về vấn đề: Làm gì để quảng bá hiệu quả hình ảnh Việt Nam qua điện ảnh. Theo TS Ngô Phương Lan, Điện ảnh là ngành có tính quốc tế rất cao, theo doanh thu tác phẩm điện ảnh trên thị trường quốc tế lớn gấp nhiều lần thị trường nội địa, nhưng làm thế nào để phát triển thị trường quốc tế cho điện ảnh Việt là bài toán khó. Việc cần làm là phải có chiến lược quảng bá phim Việt ra thế giới ở 3 cấp độ: một là tham dự các Tuần phim Việt Nam, Ngày văn hóa Việt Nam, các sự kiện văn hóa nghệ thuật theo thỏa thuận, hiệp định, quan hệ ngoại giao…(chọn phim đáp ứng yêu cầu đối ngoại); hai là tham dự các liên hoan phim quốc tế (chọn phim có giá trị nghệ thuật và có tìm tòi mới mẻ); ba là thiết lập thị trường điện ảnh Việt Nam ở nước ngoài (đối với phim có giá trị thương mại, giá trị nhân văn).

Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình VHNT Trung ương, Chủ tịch Hiệp hội Xúc tiến phát triển điện ảnh Việt Nam, TS Ngô Phương Lan: Hợp tác sản xuất phim và cung cấp dịch vụ sản xuất phim cho nước ngoài là lĩnh vực rất quan trọng để thúc đẩy công nghiệp điện ảnh Việt Nam phát triển

Bên cạnh đó, Nhà nước nên có cơ chế khuyến khích các tổ chức và cá nhân, cơ sở và doanh nghiệp điện ảnh đưa phim Việt Nam phát hành và chiếu ở nước ngoài dưới mọi hình thức, đồng thời quan tâm và triển khai việc khai thác phim Việt Nam ở thị trường nước ngoài trong và sau thời gian chiếu phim cùng việc phát triển các sản phẩm “ăn theo” phim như nhiều nước đã làm. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế nên gắn điện ảnh vào mọi hoạt động hợp tác khác trong lĩnh vực văn hoá, kinh tế, ngoại giao... Điều này vừa thúc đầy sự phát triển của điện ảnh vừa có thể đưa Việt Nam đến gần với thế giới hơn.

Hợp tác sản xuất phim và cung cấp dịch vụ sản xuất phim cho nước ngoài là lĩnh vực rất quan trọng để thúc đẩy công nghiệp điện ảnh Việt Nam phát triển, nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ làm điện ảnh và các ngành dịch vụ liên quan, tạo nguồn thu lớn cho đất nước, giúp điện ảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, đồng thời quảng bá đất nước, con người Việt Nam thật sự hữu hiệu và góp phần phát triển du lịch…

Nhà nước cần quan tâm hơn nữa đối với đội ngũ sáng tạo Nhiếp ảnh

Phát biểu tại Hội thảo, Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, Chủ tịch Hội NSNA Việt Nam Trần Thị Thu Đông chia sẻ: Để các ngành công nghiệp văn hóa phát triển cần có ba yếu tố quan trọng đó là: người sáng tạo, nhà đầu tư và thị trường. Nhiếp ảnh là một trong 12 lĩnh vực nằm trong Chiến lược phát triển ngành công nghiệp văn hóa, hằng năm, các nhà sáng tác đã tạo ra rất nhiều tác phẩm, nhưng để các tác phẩm trở thành sản phẩm thì rất ít và nhỏ lẻ, mà nguyên nhân là hiện nay đang thiếu nhà đầu tư, trong khi nhà nước đầu tư cho lĩnh vực Nhiếp ảnh là rất ít. Trước đây, nhà nước cũng đã đầu tư cho việc đào tạo người sáng tác ở nước ngoài, nhưng hiện nay là không có, mà đối với đào tạo trong nước thì ở Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội chỉ có 1 khoa, chính vì thế, đội ngũ những người sáng tác được đào tạo bài bản là khá ít.

Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, Chủ tịch Hội NSNA Việt Nam Trần Thị Thu Đông: Nhà nước cần đầu tư bài bản về nguồn lực, cơ sở vật chất, thị trường để các tác phẩm nhiếp ảnh trở thành sản phẩm, góp phần thúc đẩy các ngành công nghiệp văn hóa phát triển…

Chủ tịch Hội NSNA Việt Nam Trần Thị Thu Đông cho biết, mỗi năm, Bộ VHTTDL, Hội NSNA Việt Nam tổ chức các cuộc thi ảnh nghệ thuật quốc tế, toàn quốc, khu vực và ở các địa phương đối với nhiếp ảnh, và đã có số lượng rất lớn các tác phẩm tham dự. Và để biến các tác phẩm này trở thành sản phẩm thì chưa được nhiều bởi thiếu nhà đầu tư, đồng thời, việc tạo ra thị trường cho các tác  phẩm cũng chưa có, đôi khi còn manh mún…

Đề xuất mong muốn trong thời gian tới, bà Trần Thị Thu Đông cho rằng: Nhà nước cần quan tâm hơn đối với người sáng tạo nhiếp ảnh; đầu tư bài bản về nguồn lực, cơ sở vật chất, thị trường để các tác phẩm nhiếp ảnh trở thành sản phẩm, góp phần thúc đẩy các ngành công nghiệp văn hóa phát triển…

Vụ trưởng Vụ Thư viện Kiều Thúy Nga phát biểu

PGS, TS Vũ Ngọc Thanh bàn thảo về đào tạo ngành Điện ảnh

TS Trần Bá Dung trao đổi về truyền thông chính sách văn hóa

Nhà báo Phạm Vũ Dũng phát biểu về vấn đề xây dựng văn hóa gia đình

Nhà văn Bùi Việt Thắng phát biểu về văn học tiệm tiến văn hóa

 

Khẳng định tầm quan trọng của việc thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 trong bối cảnh hiện nay

Phát biểu tổng kết Hội thảo, Quyền Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật Hoàng Hà cho biết: đã có 36 tham luận gửi tới Hội thảo và 11 tham luận, ý kiến  của các chuyên gia, nhà quản lý, các nhà nghiên cứu khoa học đã được trình bày tại Hội thảo. Các báo cáo tham luận và các ý kiến thảo luận đều tập trung phân tích, luận giải, làm sáng tỏ các nội dung:

Một là, khẳng định tầm quan trọng của việc thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 trong bối cảnh hiện nay, tiếp tục làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của văn hóa trong việc phát triển nhanh và bền vững đất nước.  Các tham luận đã làm sáng rõ những đóng góp tích cực của nhiều lĩnh vực như: di sản, văn hóa cơ sở, thư viện, điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, du lịch, gia đình, giao lưu và hội nhập quốc tế… trong việc thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030.

Quyền Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật Hoàng Hà tổng kết hội thảo

Hai là, nhiều tham luận rất công phu trong việc đánh giá thực trạng xây dựng, phát huy vai trò của văn hóa ở nhiều lĩnh vực, địa phương như thực trạng phát triển công nghiệp văn hóa ở tỉnh Thừa Thiên Huế, Ninh Bình, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Thanh Hóa, Hà Giang...; phát triển du lịch, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới bằng điện ảnh; quảng bá và tôn vinh áo dài; nguồn nhân lực làm việc trong lĩnh vực di sản văn hóa… Cũng tiếp cận từ phương diện thực tiễn để tổng kết, khái quát thành lý luận, một số tham luận từ các nghiên cứu trường hợp cụ thể của địa phương, đơn vị trong việc xây dựng, phát triển thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 đã có những kiến giải rất sinh động, thuyết phục về vai trò của văn hóa trong việc phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Ba là, nhiều tham luận cũng đã nêu lên những khó khăn, thách thức, bất cập, hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030. Đó là những khó khăn, hạn chế về phương diện nhận thức, về cơ chế, chính sách, về các nguồn lực đầu tư phát triển, về cơ sở vật chất, về chất lượng nguồn nhân lực... trong việc thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ của Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030. Đây chính là những điểm nghẽn cần được khai thông trong thời gian tới.

Bốn là, các tham luận gửi tới Hội thảo cũng như các ý kiến trao đổi tại Hội thảo đã nêu lên những kiến giải, những đề xuất, khuyến nghị về giải pháp để phát huy vai trò của văn hóa, thúc đẩy quản lý văn hóa tại Việt Nam như mô hình “đầu tư công - quản trị tư”; các giải pháp khơi thông nguồn lực, hoàn thiện chính sách, đẩy mạnh chuyển đổi số; giải pháp xây dựng văn hóa gia đình Việt Nam; giải pháp cho công tác hội nhập quốc tế về văn hóa. Bên cạnh hệ thống giải pháp mang tính tổng thể, còn rất nhiều giải pháp gắn với những lĩnh vực cụ thể trong phát triển văn hóa đến năm 2030 như: nghệ thuật biểu diễn, thư viện, điện ảnh,  du lịch, quản lý di sản văn hóa…, đưa ra các giải pháp cụ thể để thực hiện Chiến lược tại một số tỉnh thành, địa phương trong thời gian tới.

Trên cơ sở những ý kiến, tham luận tại hội thảo, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật sẽ tổng hợp, báo cáo Bộ VHTTDL, góp phần hoàn thiện chính sách, thực hiện có hiệu quả Chiến lược phát triển văn hóa.

Ban tổ chức hội thảo chụp ảnh lưu niệm với các đại biểu

NGỌC BÍCH - Ảnh: TUẤN MINH

;