Chính sách hỗ trợ nghệ nhân, nghệ sĩ trẻ tham gia các hoạt động phục vụ phát triển các ngành công nghiệp văn hóa

Tiết mục đạp trống "Tiếng vọng miền sơn cước" (Trường trung cấp Nghệ thuật Xiếc và Tạp kỹ Việt Nam) - Giải nhất Cuộc thi Tài năng Xiếc toàn quốc 2024 - Ảnh: nhandan.vn

Mở đầu

Trong bối cảnh nền văn hóa toàn cầu ngày càng phát triển và hội nhập sâu rộng, vai trò của nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Họ không chỉ là những người kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống mà còn là lực lượng sáng tạo chính trong việc xây dựng và làm mới các ngành công nghiệp văn hóa. Những tài năng trẻ này đóng góp không chỉ bằng tài năng nghệ thuật mà còn qua khả năng đổi mới, sáng tạo và khả năng thích ứng với xu thế mới.

Tuy nhiên, sự phát triển và đóng góp của nghệ nhân, nghệ sĩ trẻ vẫn gặp phải nhiều khó khăn như: thiếu nguồn lực tài chính, hạn chế trong cơ hội phát triển và sự chưa đồng bộ trong chính sách hỗ trợ. Để họ có thể phát huy hết tiềm năng của mình và góp phần tích cực vào sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp văn hóa, việc xây dựng và thực hiện các chính sách hỗ trợ hiệu quả là vô cùng cần thiết.

1. Thực trạng chính sách hỗ trợ nghệ nhân, nghệ sĩ trẻ hiện nay

Xét tổng thể, chính sách hỗ trợ nghệ nhân, nghệ sĩ trẻ hiện nay nằm trong chính sách hỗ trợ nghệ nhân, nghệ sĩ nói chung. Đảng và Nhà nước đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc đối với việc đào tạo nhân lực văn hóa, nghệ thuật thông qua việc ban hành nhiều chính sách hỗ trợ. Trong đó, các chính sách về miễn, giảm học phí và hỗ trợ học bổng đã được áp dụng cho các đối tượng phù hợp. Cụ thể, Nghị định số 81/2021/NĐ-CP ngày 27-8-2021 của Chính phủ quy định về cơ chế thu và quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân, học sinh và sinh viên theo học các ngành nghệ thuật truyền thống và đặc thù sẽ được giảm học phí. Cụ thể, mức giảm lên tới 70% học phí được áp dụng cho học sinh và sinh viên học các ngành như nhạc công kịch hát dân tộc, nhạc công truyền thống Huế, đờn ca tài tử Nam Bộ, diễn viên sân khấu kịch hát, nghệ thuật biểu diễn dân ca, ca trù, bài chòi và nhạc cụ truyền thống. Mức giảm 70% cũng được áp dụng cho các chuyên ngành khác như Nhã nhạc cung đình, Chèo, Tuồng, Cải lương, Múa và Xiếc. Chính phủ cũng có Quyết định số 1341/QĐ-TTg ngày 28-7-2016 phê duyệt Đề án “Đào tạo tài năng trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật giai đoạn 2016-2025, tầm nhìn đến 2030”. Đề án tập trung vào việc phát hiện và đào tạo tài năng trẻ, nâng cấp cơ sở vật chất và chương trình đào tạo, cải thiện chất lượng giảng dạy và hỗ trợ tài chính cho học sinh. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 82/2005/QĐ-TTg ngày 18-4-2005 về chế độ ưu đãi đối với một số đối tượng học sinh, sinh viên học các bộ môn nghệ thuật truyền thống và đặc thù trong các trường văn hóa - nghệ thuật gồm: tuồng, chèo, cải lương, múa hát cung đình, xiếc, múa, thanh nhạc, nhạc hơi, nhạc dây, nhạc gõ, điện ảnh, mỹ thuật gồm chế độ giảm học phí, chế độ bồi dưỡng nghề đối với học sinh, sinh viên các bộ môn nghệ thuật, quy định chế độ trang bị học tập đối với học sinh, sinh viên chuyên ngành: tuồng, chèo, cải lương, múa hát cung đình, xiếc, múa và mỹ thuật. Đối với nghệ nhân, Nghị định số 109/2015/NĐ-CP ngày 28-10-2015 của Chính phủ về việc hỗ trợ đối với nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn hướng đến hỗ trợ cho nghệ nhân nói chung và nghệ nhân trẻ nói riêng.

Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 926/QĐ-TTg ngày 6-7-2006 về chính sách tài trợ, đặt hàng sáng tác các tác phẩm văn học, nghệ thuật của Nhà nước được quy định đối với một số lĩnh vực chuyên ngành như xuất bản (bao gồm tài trợ, đặt hàng các tác phẩm văn học), điện ảnh (bao gồm các quy định về sản xuất và cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích và thông qua chính sách hỗ trợ sáng tạo cho các Hội Văn học nghệ thuật chuyên ngành trung ương và địa phương. Đến ngày 1-3-2011, Thủ tướng tiếp tục ban hành Quyết định số 316/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Xây dựng và rà soát chế độ chính sách đối với hoạt động văn học, nghệ thuật và văn nghệ sĩ; tài trợ, đặt hàng đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật; chính sách khuyến khích sáng tác trong hoạt động văn học, nghệ thuật” thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.

Ngoài ra, Bộ VHTTDL đang đề xuất xây dựng một Nghị định mới nhằm quy định các chế độ và chính sách đối với viên chức và người lao động chuyên môn trong các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn. Chính sách này dự kiến sẽ điều chỉnh mức phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp từ 15% lên 25% và từ 20% lên 30% cho các viên chức và người lao động trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.

Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng và môi trường làm việc có một số thành tựu nhất định

 Việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng văn hóa và tạo ra không gian sáng tạo các yếu tố quan trọng trong việc nâng cao môi trường làm việc cho nghệ sĩ trẻ. Những cải tiến này không chỉ tạo điều kiện vật chất thuận lợi mà còn thúc đẩy sự sáng tạo và phát triển nghề nghiệp của các nghệ sĩ trẻ. Kết quả là một môi trường nghệ thuật phong phú và chuyên nghiệp hơn, hỗ trợ sự phát triển toàn diện của nghệ sĩ trẻ và nâng cao chất lượng của ngành Văn hóa và Nghệ thuật. Thời gian vừa qua, Nhà nước đã đầu tư vào việc xây dựng và nâng cấp các cơ sở văn hóa như nhà hát, phòng trưng bày và trung tâm nghệ thuật. Đầu tư vào cơ sở vật chất đã tạo ra một môi trường làm việc tốt hơn cho nghệ sĩ. Việc nâng cấp cơ sở vật chất giúp cải thiện tiện nghi cho nghệ sĩ, từ việc có phòng tập luyện tốt hơn, thiết bị hiện đại đến không gian biểu diễn đạt tiêu chuẩn quốc tế. Điều này không chỉ nâng cao chất lượng công việc mà còn giúp nghệ sĩ cảm thấy thoải mái và chuyên nghiệp hơn. Việc có các cơ sở vật chất hiện đại và đạt chuẩn giúp nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa và nghệ thuật. Các nhà hát, phòng trưng bày và trung tâm nghệ thuật được nâng cấp đã có thể tổ chức các sự kiện và triển lãm với quy mô và chất lượng tốt hơn, thu hút nhiều khán giả hơn, tạo cơ hội lớn hơn cho nghệ sĩ trẻ trong việc tiếp cận và phát triển sự nghiệp.

Thêm vào đó, các trung tâm nghệ thuật, không gian sáng tạo và các khu vực biểu diễn đã được phát triển nhằm giúp nghệ sĩ trẻ có nơi để thực hành, sáng tác và biểu diễn tác phẩm của mình. Việc tạo ra các trung tâm và không gian chuyên biệt giúp nghệ sĩ trẻ có những nơi phù hợp để thực hành và sáng tác. Những không gian này được thiết kế để đáp ứng nhu cầu sáng tạo của nghệ sĩ, từ các phòng luyện tập đến các phòng studio, là môi trường lý tưởng cho nghệ sĩ trẻ để phát triển ý tưởng mới, thử nghiệm các kỹ thuật nghệ thuật và thể hiện cá tính sáng tạo của mình mà không bị ràng buộc. Từ đó, nghệ sĩ trẻ có cơ hội thực hành và hoàn thiện kỹ năng của mình trong môi trường được trang bị tốt, góp phần vào việc nâng cao năng lực và sự chuyên nghiệp của họ.

Chính sách đào tạo cũng có những chuyển biến tích cực

Các cơ sở giáo dục như trường đại học, cao đẳng và các trung tâm đào tạo nghệ thuật cung cấp chương trình đào tạo và nâng cao kỹ năng cho nghệ sĩ trẻ, bao gồm các khóa học về nghệ thuật, quản lý văn hóa và các kỹ năng liên quan.

Trước hết, các chương trình đào tạo nghệ thuật chuyên sâu tại những cơ sở này cung cấp các khóa học về nghệ thuật biểu diễn, từ nhạc, múa, kịch đến các loại hình nghệ thuật khác. Những khóa học này không chỉ tập trung vào việc phát triển kỹ năng biểu diễn và kỹ thuật cá nhân mà còn đào tạo về nghệ thuật truyền thống như ca trù, chèo và cải lương. Đồng thời, các khóa học về sáng tác và thiết kế nghệ thuật giúp nghệ sĩ trẻ phát triển khả năng viết kịch bản, sáng tác âm nhạc và thiết kế sân khấu.

Bên cạnh đó, nhiều chương trình, giáo trình đào tạo ngày càng được hoàn thiện phù hợp với trình độ học. Các chương trình đào tạo về quản lý văn hóa và nghệ thuật giúp nghệ sĩ trẻ nắm vững các kỹ năng quản lý, tổ chức sự kiện văn hóa và quản lý sự nghiệp cá nhân. Những khóa học này bao gồm lập kế hoạch dự án, quản lý ngân sách và các kỹ năng giao tiếp, đàm phán. Việc đào tạo về kỹ năng mềm như giao tiếp, làm việc nhóm và lãnh đạo cũng được chú trọng, cùng với việc ứng dụng công nghệ mới vào nghệ thuật, chẳng hạn như sử dụng phần mềm thiết kế, các nền tảng trực tuyến. Một số mô hình tổ chức đào tạo liên quan đến các ngành công nghiệp văn hóa đã được thực hiện theo hướng chuyên nghiệp, bài bản.

Ngoài việc cung cấp kiến thức và kỹ năng, các cơ sở đào tạo còn tạo cơ hội thực hành và kết nối thông qua các dự án thực tế, thực tập và sự kiện nghệ thuật. Đây là những cơ hội quan trọng giúp nghệ sĩ trẻ áp dụng kiến thức vào thực tiễn, xây dựng mạng lưới nghề nghiệp và tiếp cận với khán giả. Như vậy, các cơ sở giáo dục văn hóa, nghệ thuật không chỉ đào tạo các kỹ năng nghệ thuật chuyên môn mà còn cung cấp nền tảng quản lý, kỹ năng mềm và cơ hội thực hành, góp phần quan trọng vào sự phát triển toàn diện của nghệ sĩ trẻ.

Tuy nhiên, việc xây dựng và triển khai chính sách đối với nghệ nhân, nghệ sĩ trẻ cũng có một số vướng mắc sau:

Cơ chế và chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, nghệ sĩ ở Việt Nam hiện tại đang gặp phải nhiều bất cập và chồng chéo

Các nhà hát hiện nay đang rất thiếu hụt nguồn nhân lực chuyên môn chất lượng cao. Đặc biệt, hiện nay rất thiếu nguồn nhân lực sáng tạo (tác giả văn học, tác giả kịch bản) ở một số loại hình sân khấu dẫn đến thiếu kịch bản hay, mới, có chất lượng để dàn dựng và biểu diễn. Nhìn chung, đội ngũ nghệ sĩ, diễn viên, người lao động trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở khu vực Nhà nước khá đông đảo, nhưng lại thiếu vắng các diễn viên giỏi, tài năng trẻ (1). Nghị định số 109/2015/NĐ-CP, được ban hành ngày 28-10-2015, nhằm hỗ trợ nghệ nhân nhân dân và nghệ nhân ưu tú có thu nhập thấp và hoàn cảnh khó khăn. Mặc dù mục tiêu của nghị định là hỗ trợ tài chính cho các nghệ nhân, những người đã đóng góp to lớn cho việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, thực tế cho thấy việc áp dụng các quy định trong nghị định này gặp nhiều hạn chế. Cụ thể, việc xác định đối tượng và mức hỗ trợ không được căn cứ đầy đủ vào điều kiện thực tế của từng cá nhân, chẳng hạn như hoàn cảnh gia đình hay tình trạng sức khỏe. Điều này dẫn đến việc nhiều nghệ nhân tài năng, những người có nhiều cống hiến cho cộng đồng, không nhận được mức hỗ trợ tương xứng với công sức của họ. Một khoản phụ cấp cố định từ ngân sách Nhà nước sẽ giúp đảm bảo sự ổn định tài chính cho các nghệ nhân, đồng thời phản ánh đúng giá trị của sự đóng góp văn hóa của họ.

Bên cạnh đó, Nghị định số 60/2021/NĐ-CP quy định về cơ chế tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công lập, cũng gặp khó khăn khi áp dụng cho các đơn vị nghệ thuật. Một trong những thách thức lớn là tính chất đặc thù của ngành nghệ thuật, nơi yêu cầu nguồn nhân lực phải có sức trẻ và sức khỏe. Trong thực tế, nhiều thiết chế văn hóa đang phải đối mặt với vấn đề về tuổi tác của đội ngũ nhân viên: nhiều người có tuổi đời chưa cao, nhưng đã qua tuổi lao động hiệu quả. Việc tinh giản nhân sự một cách cơ học không phải là giải pháp khả thi, vì nếu giữ lại những nhân viên này mà không có sự hỗ trợ ngân sách từ Nhà nước, sẽ khó đảm bảo mức thu nhập ổn định cho họ. Điều này nhấn mạnh sự cần thiết của các chính sách hỗ trợ linh hoạt hơn, nhằm sắp xếp và bố trí công việc phù hợp với khả năng và tuổi tác của nhân viên, đồng thời đảm bảo nguồn tài chính cần thiết để duy trì hoạt động của các đơn vị nghệ thuật.

Quy định chế độ phụ cấp còn ở mức thấp, chưa đầy đủ

Ngoài lương, theo quy định, các nghệ sĩ được hưởng phụ cấp ưu đãi nghề 15% theo hệ số lương (với nhạc công) và 20% (với diễn viên); phụ cấp độc hại (hay gọi thanh sắc) là 0,3% (với diễn viên) và 0,2% (với nhạc công). Nhưng khoản này cũng là không đáng kể. Nhiều vị trí việc làm trong các thiết chế văn hóa còn chưa sắp xếp được phụ cấp hợp lý hoặc định mức thù lao, bồi dưỡng phù hợp. Quyết định số 14/2015/QĐ-TTg quy định mức bồi dưỡng luyện tập, bồi dưỡng biểu diễn theo mức tiền cụ thể chế độ bồi dưỡng luyện tập thấp nhất là 35.000 đồng/ buổi tập và mức cao nhất là 80.000 đồng/ buổi tập; chế độ bồi dưỡng biểu diễn thấp nhất là 80.000 đồng/ buổi biểu diễn và cao nhất là 200.000 đồng/ buổi biểu diễn. Tuy nhiên, từ năm 2015 đến nay, sau 6 lần tăng lương cơ sở, mức tiền bồi dưỡng vẫn giữ nguyên, không theo kịp so với nhu cầu của cuộc sống, vì vậy, không khích lệ, động viên được viên chức, người lao động chuyên môn trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.

Chính sách tuổi nghỉ hưu đối với viên chức trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn chưa phù hợp

Hiện nay, các đơn vị sự nghiệp công lập nghệ thuật biểu diễn tồn tại nhiều diễn viên lớn tuổi nam từ trên 45 tuổi đến dưới 55 tuổi, nữ trên 40 tuổi đến dưới 50 tuổi trong biên chế, tuổi nghề đã hết, nhưng chưa đủ tuổi để nghỉ hưu, vẫn ở lại đơn vị khoảng từ 10 đến 15 năm hưởng lương và các chế độ khác để chờ đủ tuổi nghỉ hưu, gây khó khăn cho đơn vị sự nghiệp công lập trong quá trình thực hiện nhiệm vụ về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, khó khăn trong việc tuyển viên chức là các nghệ sĩ trẻ để nâng cao chất lượng biểu diễn nghệ thuật. Bất cập về tuổi nghỉ hưu và giải quyết chính sách bảo hiểm xã hội đối với viên chức, người lao động trở nên khó khăn hơn khi thực hiện quy định tăng tuổi nghỉ hưu theo Bộ luật Lao động năm 2019. Chính sách về hưu sớm hơn 5 năm so với quy định thông thường, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.

Thiếu các chính sách hỗ trợ hệ thống nhà hát tư nhân

Các nhà hát và sân khấu tư nhân từng dẫn đầu trào lưu xã hội hóa hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp. Sự hình thành và nở rộ của các sân khấu tư nhân đã mang lại cho khán giả sự hào hứng về tính đa dạng của nền nghệ thuật biểu diễn Việt Nam thời kỳ hội nhập. Tuy nhiên, nếu có sự phân biệt đối xử giữa khu vực Nhà nước được đầu tư cơ sở vật chất, được ưu đãi về thuê đất, mặt bằng, thuế, phí, vay vốn với các nhà hát tư nhân phải tự bươn chải, xoay xở trong cơ chế kinh tế thị trường sẽ là một sự bất công và không khuyến khích các nghệ sĩ tâm huyết theo đuổi sự nghiệp này. Thực tế cho thấy, những năm gần đây, nhất là sau đại dịch COVID-19, nhiều nhà hát, sân khấu tư nhân đã phải đóng cửa vì không trụ nổi. Chẳng hạn, đầu tiên là ông bầu Phước Sang đã phá sản, phải đóng cửa hai tụ điểm của Sân khấu kịch Sài Gòn. Sân khấu kịch IDECAF phải ngưng một tụ điểm và tụ điểm còn lại phải chuyển địa chỉ liên tục. Sân khấu kịch Hồng Vân cũng phải co hẹp lại quy mô và chuyển địa điểm liên tục. Các sân khấu khác phải nhờ nỗ lực, tâm huyết, công sức rất lớn của các nghệ sĩ mới có thể trụ lại được.

2. Tầm quan trọng của nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ tham gia các hoạt động phục vụ phát triển các ngành công nghiệp văn hóa

Nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Sự tham gia của họ không chỉ làm phong phú và đa dạng hóa các sản phẩm văn hóa mà còn góp phần vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống cũng như thúc đẩy sự đổi mới trong nghệ thuật.

Ở khía cạnh đổi mới và sáng tạo, nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự đổi mới và sáng tạo trong ngành công nghiệp văn hóa, giúp ngành này không ngừng phát triển và thích ứng với xu hướng hiện đại. Tại Việt Nam, nhiều nghệ sĩ trẻ không chỉ tiếp thu các kỹ thuật truyền thống mà còn sáng tạo ra những phong cách và hình thức nghệ thuật mới, từ đó tạo ra sự hấp dẫn độc đáo cho công chúng.

Trong lĩnh vực điện ảnh, các đạo diễn trẻ như Nguyễn Hoàng Điệp, Phan Đăng Di đã mang đến những câu chuyện và phong cách làm phim độc đáo, không ngừng thử nghiệm với các hình thức kể chuyện và kỹ thuật quay phim mới. Những bộ phim như Cha cõng con của Lương Đình Dũng, dù không hoàn toàn mới, đã được làm theo cách tươi mới và cảm động, làm nổi bật những câu chuyện chân thực về đời sống và văn hóa Việt Nam. Sự sáng tạo của các nghệ sĩ trẻ này không chỉ góp phần nâng cao chất lượng điện ảnh Việt mà còn mở ra cơ hội cho việc giới thiệu điện ảnh Việt Nam ra thế giới. Trong lĩnh vực mỹ thuật, sự xuất hiện của một số nghệ sĩ trẻ đã tạo ra những xu hướng mới trong nghệ thuật đương đại. Các tác phẩm của họ kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, sử dụng các kỹ thuật mới và chủ đề phản ánh xã hội đương đại và các vấn đề toàn cầu, không chỉ giúp làm mới nghệ thuật sơn mài mà còn thu hút sự chú ý từ thị trường nghệ thuật quốc tế.

Bằng cách thử nghiệm và đổi mới, nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ không chỉ làm phong phú thêm các sản phẩm văn hóa mà còn giúp ngành công nghiệp văn hóa thích ứng với xu hướng hiện đại. Họ tạo ra những tác phẩm có sức hút mạnh mẽ, góp phần làm tăng giá trị văn hóa và phát triển thị trường nghệ thuật. Sự sáng tạo của họ không chỉ giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống mà còn mở rộng tầm ảnh hưởng của nghệ thuật Việt Nam trên trường quốc tế.

Ở khía cạnh bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống. Họ giúp duy trì các hình thức nghệ thuật cổ truyền như tuồng, chèo, cải lương và các nghệ thuật truyền thống khác, đồng thời đưa chúng vào đời sống đương đại. Bằng cách kết hợp các yếu tố truyền thống với phong cách hiện đại, họ giúp làm sống lại các di sản văn hóa và giữ cho chúng luôn tươi mới và hấp dẫn.

Sự tham gia của nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ góp phần quan trọng vào việc phát triển các ngành công nghiệp văn hóa và giải trí. Các sản phẩm nghệ thuật, từ các buổi biểu diễn, triển lãm, phim ảnh đến các sản phẩm mỹ thuật, tạo ra nguồn thu đáng kể cho nền kinh tế. Ngoài việc thúc đẩy doanh thu từ các hoạt động văn hóa, sự đổi mới và sáng tạo trong nghệ thuật còn tạo ra cơ hội việc làm và thu hút đầu tư.

Góp phần xây dựng thương hiệu quốc gia, nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ giúp nâng cao thương hiệu quốc gia trên trường quốc tế thông qua việc giới thiệu văn hóa và nghệ thuật quốc gia ra thế giới. Những tác phẩm nghệ thuật và biểu diễn quốc tế không chỉ quảng bá hình ảnh quốc gia mà còn tạo cơ hội cho sự giao lưu văn hóa và hợp tác quốc tế, không chỉ nâng cao uy tín quốc gia mà còn mở rộng cơ hội thương mại và đầu tư trong lĩnh vực văn hóa.

Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng, nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ thường tham gia các hoạt động cộng đồng, góp phần tạo dựng một môi trường văn hóa phong phú và tích cực. Họ có thể tổ chức các sự kiện văn hóa, chương trình giáo dục nghệ thuật và các hoạt động giao lưu, qua đó góp phần phát triển đời sống văn hóa cộng đồng và xây dựng một xã hội gắn kết.

Phát triển kỹ năng và định hướng nghề nghiệp, sự tham gia của nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ không chỉ giúp họ phát triển kỹ năng cá nhân mà còn mở ra nhiều cơ hội nghề nghiệp trong ngành công nghiệp văn hóa. Họ có thể xây dựng sự nghiệp bền vững và trở thành những người dẫn dắt trong lĩnh vực nghệ thuật, truyền cảm hứng cho thế hệ kế tiếp và tạo dựng một di sản nghệ thuật lâu dài.

3. Giải pháp hoàn thiện chính sách hỗ trợ nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ tham gia các hoạt động phục vụ phát triển các ngành công nghiệp văn hóa

Bên cạnh việc thực hiện tốt các chính sách đã có, theo tôi, Nhà nước cần quan tâm đến việc xây dựng, ban hành một số chính sách sau:

Chính sách tài chính

Chính sách tài chính để hỗ trợ nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ đóng vai trò then chốt trong việc phát triển và duy trì sự sáng tạo trong nghệ thuật. Cung cấp hỗ trợ tài chính, như học bổng, trợ cấp và quỹ dự án, giúp nghệ sĩ trẻ vượt qua khó khăn tài chính và tập trung vào công việc sáng tạo. Những nguồn lực này không chỉ tạo điều kiện cho họ tiếp cận đào tạo chất lượng cao mà còn giúp thực hiện các dự án nghệ thuật, từ đó nâng cao kỹ năng và chất lượng tác phẩm. Chính sách tài chính cũng khuyến khích sự đổi mới và thử nghiệm trong nghệ thuật, vì nghệ sĩ không phải lo lắng về các vấn đề kinh tế. Hỗ trợ tài chính giúp bảo tồn và phát huy văn hóa, đồng thời tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển bền vững của ngành Văn hóa nghệ thuật.

Để hỗ trợ nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa truyền thống và nghệ thuật đương đại, Nhà nước cần thành lập quỹ hỗ trợ tài chính. Quỹ này nên được quản lý bởi một cơ quan thuộc Bộ VHTTDL, hoặc thông qua một tổ chức độc lập dưới sự giám sát của Nhà nước. Nguồn vốn của quỹ có thể đến từ ngân sách nhà nước, đóng góp của các tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước, cũng như từ các chương trình gây quỹ cộng đồng hoặc sự kiện văn hóa.

Học bổng và hỗ trợ đào tạo là những phần quan trọng của quỹ. Cần cung cấp học bổng toàn phần hoặc bán phần cho các nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ, giúp họ theo đuổi các khóa học chuyên môn, chương trình đào tạo ngắn hạn hoặc dài hạn tại các cơ sở uy tín trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, quỹ cần hỗ trợ chi phí đào tạo nâng cao, đặc biệt là trong lĩnh vực nghệ thuật truyền thống và đương đại, thông qua các khóa học từ xa, học tập tại nước ngoài hoặc các chương trình thực tập chuyên sâu.

Quỹ cũng cần hỗ trợ kinh phí cho các dự án nghệ thuật, bao gồm cả dự án cá nhân và nhóm. Các nghệ sĩ trẻ có thể nhận hỗ trợ từ giai đoạn ý tưởng, sáng tác đến triển khai thực tế, với các dự án như triển lãm, biểu diễn, xuất bản sách, sản xuất phim hoặc các dự án nghệ thuật cộng đồng. Đặc biệt, các dự án liên quan đến bảo tồn và phát huy di sản văn hóa truyền thống cần được ưu tiên hỗ trợ, vừa bảo vệ giá trị văn hóa, vừa khuyến khích sáng tạo trong việc ứng dụng di sản vào nghệ thuật đương đại.

Để đảm bảo sự công bằng và minh bạch trong việc hỗ trợ, quá trình xét duyệt hồ sơ nhận quỹ cần được thực hiện công khai với các nghệ sĩ và nghệ nhân, trình bày rõ ràng về dự án và kế hoạch sử dụng kinh phí. Cơ chế giám sát và đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ cần được thiết lập để đảm bảo nguồn vốn được sử dụng đúng mục đích, mang lại giá trị cao nhất cho cộng đồng nghệ thuật và xã hội.

Ngoài ra, quỹ cần có các khoản trợ cấp cho nghệ nhân có hoàn cảnh khó khăn, bao gồm hỗ trợ sinh hoạt phí và tiếp cận các dịch vụ y tế, an sinh xã hội. Điều này đảm bảo rằng, các nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ không bị gián đoạn trong việc phát triển sự nghiệp nghệ thuật do các vấn đề tài chính hoặc sức khỏe.

Việc thiết lập quỹ hỗ trợ tài chính không chỉ giúp các nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ phát triển tài năng mà còn góp phần quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa, nghệ thuật của Việt Nam.

Chính sách đào tạo

Chính sách đào tạo cho nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ đóng vai trò thiết yếu trong việc phát triển và nâng cao chất lượng nghệ thuật. Đào tạo chuyên sâu giúp nghệ sĩ trẻ cải thiện kỹ năng và mở rộng hiểu biết về các kỹ thuật và xu hướng nghệ thuật mới. Việc tổ chức các khóa học và hội thảo với sự hướng dẫn của các chuyên gia và nghệ sĩ dày dạn kinh nghiệm cung cấp cho họ cơ hội học hỏi và phát triển tài năng. Chính sách này không chỉ giúp nâng cao trình độ cá nhân mà còn đóng góp vào việc duy trì và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Đầu tư vào đào tạo nghệ sĩ trẻ không chỉ nâng cao chất lượng sản phẩm nghệ thuật mà còn thúc đẩy sự sáng tạo và đổi mới, từ đó tạo ra nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của ngành Văn hóa nghệ thuật.

Để thực hiện việc đào tạo chuyên sâu và hợp tác quốc tế cho nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ, cần có các chiến lược và kế hoạch cụ thể nhằm tối ưu hóa hiệu quả của các chương trình này. Theo đó, việc thiết lập các chương trình đào tạo chuyên sâu đòi hỏi sự hợp tác giữa các cơ sở giáo dục, viện nghiên cứu, và các tổ chức nghệ thuật uy tín. Nhà nước cần hợp tác với các học viện nghệ thuật, các trường đại học, các chuyên gia trong nước và quốc tế để xây dựng chương trình đào tạo chuyên biệt, phù hợp với nhu cầu của nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ. Các chương trình này có thể bao gồm khóa học về kỹ thuật, lý thuyết nghệ thuật, quản lý nghệ thuật và các xu hướng nghệ thuật mới nhất. Việc kết hợp giữa lý thuyết và thực hành là cần thiết để nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ có thể nắm bắt và áp dụng kiến thức vào sáng tạo thực tiễn.

Ngoài ra, Nhà nước nên cung cấp các học bổng và hỗ trợ tài chính để đảm bảo rằng nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ có thể tham gia các chương trình đào tạo này mà không bị rào cản về tài chính. Các cơ sở đào tạo cũng cần đầu tư vào cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại, đồng thời mời các giảng viên, chuyên gia có uy tín tham gia giảng dạy.

Chính sách hợp tác quốc tế

Chính sách hợp tác quốc tế để hỗ trợ nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng cơ hội và nâng cao chất lượng nghệ thuật. Bằng cách thiết lập các chương trình trao đổi văn hóa, tham gia hội chợ nghệ thuật quốc tế và tổ chức các buổi giao lưu quốc tế, chính sách này giúp nghệ sĩ trẻ tiếp cận với nền văn hóa, nghệ thuật toàn cầu. Sự hợp tác này không chỉ tạo điều kiện cho nghệ sĩ học hỏi kinh nghiệm từ các đồng nghiệp quốc tế mà còn mở rộng mạng lưới nghề nghiệp và tìm kiếm cơ hội hợp tác mới. Đồng thời, nó cũng giúp quảng bá văn hóa và nghệ thuật quốc gia ra thế giới, tăng cường sự nhận diện và giá trị của nghệ sĩ trẻ trên trường quốc tế. Chính sách hợp tác quốc tế là cầu nối quan trọng giữa nghệ sĩ và thị trường toàn cầu, hỗ trợ sự phát triển bền vững và đổi mới trong nghệ thuật.

Để thực hiện được mục đích trên, Nhà nước cần thiết lập mối quan hệ với các tổ chức văn hóa, viện nghệ thuật và các trường nghệ thuật nổi tiếng trên thế giới. Thông qua các hiệp định hợp tác, các nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ có thể được mời tham gia các khóa học ngắn hạn, hội thảo và các chương trình thực tập tại các cơ sở nghệ thuật quốc tế.

 Nhà nước cũng nên tài trợ hoặc đồng tài trợ cho các chương trình trao đổi nghệ thuật giữa Việt Nam và các quốc gia khác, giúp nghệ sĩ trẻ không chỉ học hỏi từ các nghệ sĩ quốc tế mà còn giới thiệu văn hóa nghệ thuật Việt Nam ra thế giới. Các chương trình này có thể bao gồm triển lãm, biểu diễn, hoặc các dự án nghệ thuật chung.

Ngoài ra, Nhà nước cần khuyến khích và hỗ trợ nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ tham gia các liên hoan nghệ thuật, hội thảo và các cuộc thi quốc tế. Việc này giúp họ có cơ hội giao lưu, học hỏi và phát triển mối quan hệ trong cộng đồng nghệ thuật toàn cầu. Nhà nước cần tạo ra các chương trình học bổng dành riêng cho nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ để họ có thể học tập và làm việc tại các trung tâm nghệ thuật lớn trên thế giới. Những học bổng này không chỉ giúp nâng cao tay nghề mà còn giúp họ mở rộng tầm nhìn và phát triển tư duy sáng tạo.

Sau khi hoàn thành các chương trình đào tạo hoặc hợp tác quốc tế, cần có các chương trình hỗ trợ tiếp theo để giúp nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ áp dụng kiến thức và kinh nghiệm vào thực tiễn, gồm việc cung cấp kinh phí cho các dự án nghệ thuật, hỗ trợ về mặt pháp lý và tạo điều kiện để họ chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm với cộng đồng nghệ thuật trong nước.

Những biện pháp này không chỉ giúp nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ phát triển tài năng mà còn đóng góp vào việc nâng cao chất lượng và tầm vóc của nền nghệ thuật Việt Nam trong bối cảnh quốc tế.

Chính sách khuyến khích sáng tạo và phát triển nghề nghiệp

Chính sách khuyến khích sáng tạo và phát triển nghề nghiệp là yếu tố then chốt trong việc thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành Văn hóa nghệ thuật. Chính sách này tạo động lực cho nghệ sĩ và nghệ nhân không ngừng đổi mới, khám phá những ý tưởng mới và phát triển kỹ năng chuyên môn. Bằng cách cung cấp các cơ hội học tập, hỗ trợ tài chính và công nhận thành tựu sáng tạo, chính sách giúp nghệ sĩ trẻ phát huy tối đa tiềm năng của mình. Đồng thời, nó cũng mở ra cơ hội nghề nghiệp, tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển lâu dài trong ngành. Chính sách khuyến khích sáng tạo còn góp phần nâng cao chất lượng và sự đa dạng của sản phẩm văn hóa nghệ thuật, từ đó tạo ra giá trị văn hóa và kinh tế cho xã hội, đồng thời bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Để đơn giản hóa thủ tục cấp phép và hỗ trợ pháp lý cho nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ, Nhà nước cần tiến hành cải cách hành chính, giảm bớt yêu cầu giấy tờ và rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ. Việc này có thể thực hiện thông qua việc triển khai dịch vụ cấp phép trực tuyến, cho phép nghệ sĩ trẻ dễ dàng tiếp cận các thủ tục cần thiết. Thiết lập cơ chế “một cửa liên thông” cũng là giải pháp hiệu quả, giúp nghệ sĩ chỉ cần nộp hồ sơ tại một nơi duy nhất và nhận được tất cả các giấy phép cần thiết mà không phải qua nhiều cơ quan khác nhau. Đồng thời, Nhà nước nên cung cấp các hướng dẫn rõ ràng, chi tiết về quy trình cấp phép, bao gồm các ví dụ thực tiễn để nghệ sĩ hiểu rõ các bước cần thiết và tránh sai sót trong quá trình nộp hồ sơ.

Bên cạnh đó, việc hỗ trợ pháp lý cho nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ là vô cùng quan trọng. Nhà nước nên thành lập hoặc hỗ trợ các tổ chức cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý miễn phí hoặc với chi phí thấp, giúp nghệ sĩ tiếp cận với các vấn đề pháp lý như quyền tác giả, hợp đồng và cấp phép. Để nghệ sĩ dễ dàng truy cập thông tin pháp lý, cần xây dựng một hệ thống thông tin trực tuyến, nơi họ có thể tìm hiểu về các quy định pháp lý liên quan đến nghệ thuật, quyền sở hữu trí tuệ và các thủ tục pháp lý cần thiết.

Nhà nước cũng nên khuyến khích sự đổi mới trong nghệ thuật bằng cách tổ chức các cuộc thi sáng tạo dành riêng cho nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ. Các cuộc thi này có thể được tổ chức hằng năm, với các thể loại đa dạng như âm nhạc, hội họa, nhiếp ảnh, điện ảnh và văn học. Việc thiết lập các giải thưởng uy tín với cơ cấu giải thưởng hấp dẫn, bao gồm cả tiền thưởng và cơ hội triển lãm, biểu diễn hoặc xuất bản tác phẩm, sẽ giúp nâng cao sự công nhận và khuyến khích nghệ sĩ trẻ tiếp tục sáng tạo. Ngoài ra, Nhà nước nên hỗ trợ kinh phí để các nghệ sĩ trẻ triển khai các dự án nghệ thuật đoạt giải, giúp họ hiện thực hóa ý tưởng sáng tạo của mình và giới thiệu tác phẩm đến với công chúng.

Thêm vào đó, việc hỗ trợ truyền thông và quảng bá cũng rất quan trọng trong việc giúp các nghệ sĩ trẻ giới thiệu tác phẩm của mình. Nhà nước có thể hỗ trợ quảng bá các tác phẩm mới thông qua các kênh truyền thông chính thức, như truyền hình, báo chí và các nền tảng số, giúp tác phẩm của họ tiếp cận với công chúng rộng rãi hơn. Đồng thời, việc tạo cơ hội kết nối với cộng đồng nghệ thuật, nhà phê bình và khán giả thông qua các sự kiện nghệ thuật, hội thảo và triển lãm sẽ giúp các nghệ sĩ trẻ chia sẻ quá trình sáng tạo, nhận được phản hồi và xây dựng mối quan hệ nghề nghiệp.

Chính sách tiếp cận thị trường và quảng bá

Chính sách tiếp cận thị trường và quảng bá đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng tầm ảnh hưởng của nghệ thuật, kích thích sự sáng tạo và đổi mới. Bằng cách đưa các tác phẩm nghệ thuật ra thị trường rộng lớn, chính sách này không chỉ giúp nghệ sĩ trẻ tiếp cận với công chúng mà còn nâng cao giá trị kinh tế của các sản phẩm văn hóa. Đồng thời, nó bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống, tạo cơ hội hợp tác và kết nối quốc tế, giúp nghệ sĩ trẻ mở rộng quan hệ và học hỏi từ các đối tác nước ngoài. Bên cạnh đó, việc quảng bá nghệ thuật trên thị trường còn hỗ trợ sự phát triển bền vững của ngành Văn hóa nghệ thuật, thúc đẩy đầu tư và tạo ra một hệ sinh thái kinh tế mạnh mẽ, nơi nghệ sĩ có thể duy trì và phát triển sự nghiệp của mình.

Để hỗ trợ nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ trong việc quảng bá tác phẩm của họ, Nhà nước có thể triển khai một số biện pháp cụ thể sau:

Thứ nhất, cần tận dụng tối đa các kênh truyền thông như truyền hình, radio, báo chí và các nền tảng trực tuyến để giới thiệu tác phẩm của nghệ sĩ trẻ đến với công chúng. Các chương trình truyền hình chuyên đề, phóng sự và talk show có thể dành không gian để giới thiệu các tác phẩm nghệ thuật mới, giúp nghệ sĩ trẻ tiếp cận với khán giả rộng rãi hơn. Ngoài ra, các nền tảng trực tuyến như mạng xã hội, trang web chuyên về nghệ thuật, và các kênh phát hành nhạc số có thể được sử dụng để đưa tác phẩm đến với công chúng trong nước và quốc tế.

Thứ hai, việc tổ chức các sự kiện văn hóa nghệ thuật như triển lãm, buổi diễn, hội thảo và liên hoan nghệ thuật là cách hiệu quả để giới thiệu và quảng bá tác phẩm của nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ. Nhà nước có thể hỗ trợ tổ chức hoặc tài trợ cho các sự kiện này, tạo điều kiện cho nghệ sĩ trẻ trưng bày và biểu diễn tác phẩm của họ trước khán giả và nhà phê bình. Các sự kiện này không chỉ giúp nghệ sĩ trẻ tiếp cận với công chúng mà còn tạo cơ hội để họ kết nối với các chuyên gia trong ngành, mở rộng mối quan hệ và tìm kiếm cơ hội hợp tác.

Ngoài ra, để mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế, Nhà nước nên triển khai các chương trình xúc tiến thương mại văn hóa và tham gia vào các hội chợ nghệ thuật quốc tế. Các chương trình này có thể bao gồm việc đưa nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ tham dự các hội chợ, triển lãm quốc tế, nơi họ có thể giới thiệu tác phẩm của mình với các nhà sưu tập, người mua và nhà đầu tư quốc tế. Nhà nước cũng có thể hỗ trợ các nghệ sĩ trẻ trong việc đăng ký bản quyền quốc tế, xây dựng thương hiệu và phát triển các chiến lược tiếp thị quốc tế, giúp họ mở rộng tầm ảnh hưởng và khai thác các cơ hội kinh doanh trên thị trường toàn cầu.

Kết luận

Các chính sách hỗ trợ nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ là yếu tố quyết định trong việc thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa, góp phần tạo dựng nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững và đổi mới trong lĩnh vực nghệ thuật. Các chính sách này không chỉ hỗ trợ việc phát triển cá nhân của nghệ sĩ mà còn thúc đẩy sự sáng tạo, bảo tồn văn hóa truyền thống và nâng cao giá trị kinh tế của ngành công nghiệp văn hóa.

Trước tiên, việc cung cấp hỗ trợ tài chính cho nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ là một trong những yếu tố thiết yếu. Các quỹ học bổng, trợ cấp và tài trợ dự án giúp giảm bớt gánh nặng tài chính và tạo điều kiện cho nghệ sĩ tập trung vào công việc sáng tạo mà không phải lo lắng về vấn đề kinh tế. Điều này không chỉ giúp họ hoàn thành các dự án nghệ thuật mà còn khuyến khích sự đổi mới và thử nghiệm, điều rất quan trọng trong việc tạo ra các sản phẩm văn hóa độc đáo và có giá trị. Hỗ trợ tài chính cũng giúp nghệ sĩ có thể tham gia các khóa đào tạo, hội thảo và các chương trình phát triển kỹ năng, từ đó nâng cao trình độ và chất lượng tác phẩm của họ.

Bên cạnh đó, chính sách đào tạo chuyên sâu đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao kỹ năng và kiến thức cho nghệ sĩ trẻ. Việc tổ chức các khóa học, hội thảo và chương trình đào tạo với sự tham gia của các chuyên gia, nghệ sĩ dày dạn kinh nghiệm giúp nghệ sĩ trẻ học hỏi và phát triển tài năng của mình. Các chương trình đào tạo này không chỉ cải thiện kỹ thuật và sáng tạo mà còn cung cấp cho nghệ sĩ những công cụ, kiến thức cần thiết để thành công trong ngành công nghiệp văn hóa. Đầu tư vào đào tạo không chỉ nâng cao chất lượng nghệ thuật mà còn đảm bảo rằng nghệ sĩ trẻ có thể đóng góp tích cực vào sự phát triển của ngành Văn hóa nghệ thuật.

Chính sách khuyến khích hợp tác quốc tế cũng là một phần quan trọng trong việc hỗ trợ nghệ sĩ trẻ. Các chương trình giao lưu văn hóa, hội chợ nghệ thuật quốc tế và các dự án hợp tác quốc tế tạo cơ hội cho nghệ sĩ trẻ tiếp cận với nền văn hóa và nghệ thuật toàn cầu. Điều này giúp họ học hỏi từ các đồng nghiệp quốc tế, mở rộng mối quan hệ nghề nghiệp và khám phá những xu hướng nghệ thuật mới. Sự kết nối quốc tế không chỉ giúp quảng bá tác phẩm nghệ thuật của nghệ sĩ trẻ mà còn nâng cao giá trị văn hóa của quốc gia trên trường quốc tế.

Chính sách quảng bá và tiếp cận thị trường là yếu tố thiết yếu trong việc nâng cao sự nhận diện và giá trị của các tác phẩm nghệ thuật. Hỗ trợ nghệ sĩ trẻ trong việc quảng bá tác phẩm thông qua các kênh truyền thông, sự kiện văn hóa và nền tảng trực tuyến giúp họ tiếp cận với công chúng rộng rãi và tạo cơ hội kinh doanh mới. Đồng thời, việc tổ chức các sự kiện nghệ thuật, triển lãm và buổi diễn không chỉ giúp nghệ sĩ trẻ giới thiệu tác phẩm mà còn tạo cơ hội để họ kết nối với các chuyên gia trong ngành và tìm kiếm cơ hội hợp tác.

Tóm lại, các chính sách hỗ trợ nghệ nhân và nghệ sĩ trẻ là rất quan trọng trong việc xây dựng nền tảng cho sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp văn hóa. Chúng không chỉ giúp nâng cao kỹ năng và sáng tạo của nghệ sĩ mà còn bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, đồng thời thúc đẩy sự đổi mới và giá trị kinh tế của nghệ thuật. Sự đầu tư vào hỗ trợ nghệ sĩ trẻ không chỉ góp phần vào sự phát triển của ngành Văn hóa mà còn tạo ra một môi trường nghệ thuật phong phú và đa dạng, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và nền kinh tế.

_____________________

1. Từ Thị Loan, Nghệ thuật biểu diễn ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra hiện nay, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 479, tháng 11, 2021, tr.75-79.

Tài liệu tham khảo

1. Phạm Xuân Thạch, Công nghiệp văn hóa và vị trí, vai trò của văn học nghệ thuật trong sự phát triển của công nghiệp văn hóa, in trong cuốn Đề cương chuyên đề hội nghị tập huấn Công tác lãnh đạo, quản lý văn hóa văn nghệ sau 50 năm đất nước thống nhất, đổi mới và phát triển: Thực tiễn và những vấn đề cần quan tâm”, Hội đồng Lý luận Văn học, nghệ thuật Trung ương, 8-2024.

2. Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia về Thể chế, chính sách và nguồn lực cho phát triển văn hóa, Bắc Ninh, 2022.

______________________

Tham luận Hội thảo “Tài năng trẻ - Nguồn lực sáng tạo và phát triển văn hóa, nghệ thuật” do Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật tổ chức tháng 11-2024.

PGS, TS BÙI HOÀI SƠN

Nguồn: Tạp chí VHNT số 590, tháng 12-2024

;