Tại Phiên khai mạc Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”, đã khẳng định một thực tế không thể phủ nhận: việc hoàn thiện thể chế là yếu tố quyết định cho sự phát triển bền vững, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa. Trong kỷ nguyên hội nhập sâu rộng, văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội mà còn là động lực nội sinh, sức mạnh mềm để Việt Nam khẳng định vị thế trên trường quốc tế.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh điều hành nội dung Quốc hội thảo luận về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo - Ảnh: Cổng thông tin điện tử Quốc hội
Một hệ thống thể chế văn hóa hiện đại và hiệu quả sẽ giúp bảo vệ và phát huy giá trị di sản dân tộc, đồng thời định hình bản sắc trong dòng chảy hội nhập. Đây không chỉ là cách để giữ gìn những giá trị truyền thống mà còn để xây dựng hình ảnh Việt Nam tự tin và sáng tạo, không ngừng đổi mới nhưng vẫn giữ được cốt lõi văn hóa dân tộc.
Trong bối cảnh Việt Nam đang vươn mình mạnh mẽ trên trường quốc tế, văn hóa không chỉ là điểm tựa mà còn là sức mạnh để thúc đẩy sự thịnh vượng. Thể chế văn hóa cần được nhìn nhận như chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa phát triển bền vững, đưa đất nước tiến xa hơn, nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng. Với những nỗ lực tháo gỡ “điểm nghẽn của điểm nghẽn” , Việt Nam hoàn toàn có thể kỳ vọng một tương lai nơi văn hóa vừa bảo tồn được di sản, vừa tạo ra sức bật mạnh mẽ để vươn lên trong thời đại mới.
Năm 2024 đánh dấu một giai đoạn đầy ý nghĩa trong việc hoàn thiện thể chế và chính sách của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL). Nhiều nhiệm vụ trọng tâm đã được triển khai, góp phần củng cố nền tảng pháp lý, thúc đẩy phát triển bền vững và nâng cao vai trò của văn hóa trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Những dấu ấn này thể hiện rõ nhất qua việc xây dựng và sửa đổi các luật quan trọng như Luật Di sản văn hóa (sửa đổi), Luật Quảng cáo (sửa đổi), cùng với việc đề xuất thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa.
Luật Di sản văn hóa (sửa đổi): Củng cố nền tảng pháp lý cho bảo tồn và phát huy giá trị di sản
Xây dựng Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành VHTTDL trong năm 2024. Di sản văn hóa không chỉ là tài sản quốc gia mà còn là “hồn cốt” của dân tộc, đóng vai trò quan trọng trong việc định hình bản sắc, thu hút đầu tư và phát triển du lịch. Tuy nhiên, bối cảnh toàn cầu hóa, đô thị hóa và sự phát triển kinh tế đặt ra nhiều thách thức mới trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản.
Luật Di sản văn hóa Việt Nam, sau hơn 20 năm ban hành và hơn 10 năm sửa đổi, đã góp phần đáng kể trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa của đất nước, nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và đông đảo người dân. Các hoạt động bảo tồn di sản đạt được nhiều thành tựu nổi bật, như xếp hạng trên 10.000 di tích cấp tỉnh, 3.621 di tích quốc gia, và 130 di tích quốc gia đặc biệt, kiểm kê khoảng 70.000 di sản văn hóa phi vật thể và đưa 534 di sản vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Việt Nam cũng có 9 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, 15 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh, và 9 di sản tư liệu quốc tế và khu vực.
Hệ thống bảo tàng đã phát triển mạnh mẽ với 197 bảo tàng (127 công lập và 70 ngoài công lập), bảo quản hơn 4 triệu hiện vật mang giá trị lịch sử và văn hóa. 294 hiện vật, nhóm hiện vật đã được công nhận là bảo vật quốc gia, trong đó nhiều hiện vật được bảo quản và trưng bày tại các bảo tàng lớn.
Tuy nhiên, Luật Di sản văn hóa hiện hành cũng bộc lộ nhiều hạn chế và bất cập, bao gồm các quy định chung chung, thiếu chi tiết về thẩm quyền, trình tự, thủ tục công nhận di sản, mua bán cổ vật, giám định cổ vật, và cơ chế xã hội hóa bảo vệ di sản. Một số quy định còn chồng chéo, khó thực thi hoặc không còn phù hợp với thực tế, như việc phân loại bảo tàng, quy định về điều kiện thành lập bảo tàng, hay các quy trình thẩm định dự án bảo tồn di tích.
Thực tiễn phát sinh thêm nhiều vấn đề cần được bổ sung, như quy định rõ hơn về việc thu hút nguồn lực xã hội hóa, cơ chế ưu đãi thuế để khuyến khích doanh nghiệp tham gia bảo vệ di sản, cũng như tạo hành lang pháp lý để xây dựng các Quỹ Bảo tồn di sản văn hóa. Ngoài ra, cần tăng cường chuyển đổi số trong việc bảo tồn, khai thác di sản và phát triển các mô hình hợp tác công - tư.
Một số lĩnh vực chưa được quy định hoặc quy định chưa rõ ràng như bảo vệ di sản tư liệu, quản lý di sản phi vật thể trong danh sách UNESCO, đưa cổ vật về nước và kinh doanh dịch vụ bảo tàng. Sự chồng chéo giữa Luật Di sản văn hóa và các văn bản pháp luật khác, như Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Bảo vệ môi trường, gây khó khăn trong triển khai thực tế.
Do đó, việc sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hóa đã giúp giải quyết những bất cập, tạo khung pháp lý phù hợp với sự vận động của xã hội. Các nội dung sửa đổi đã làm rõ thẩm quyền, cơ chế thực hiện, tiêu chí bảo vệ và phát huy di sản; xây dựng các chính sách hỗ trợ kinh phí, ưu đãi thuế và khuyến khích cộng đồng tham gia bảo tồn; đồng thời mở rộng phạm vi điều chỉnh để bảo vệ toàn diện các loại hình di sản văn hóa, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Sự tham gia thẩm tra của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội và các cơ quan liên quan đã giúp cân đối giữa các yếu tố pháp lý, văn hóa và thực tiễn. Nhờ đó, Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) không chỉ đáp ứng yêu cầu bảo vệ mà còn tạo điều kiện để di sản trở thành nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế, xã hội.
Luật Quảng cáo (sửa đổi): Hài hòa lợi ích và nâng cao giá trị văn hóa trong quảng cáo
Ngành Quảng cáo Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, góp phần vào tăng trưởng kinh tế và quảng bá bản sắc văn hóa quốc gia. Được xác định là lĩnh vực trọng tâm trong Chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa, quảng cáo đạt nhiều thành tựu như sản phẩm chất lượng, kết hợp giữa sáng tạo hiện đại và giá trị truyền thống, góp phần lan tỏa văn hóa Việt.
Luật Quảng cáo 2012 tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy chất lượng sản phẩm và năng lực doanh nghiệp. Đến năm 2022, gần 8.000 doanh nghiệp quảng cáo đạt doanh thu tăng trưởng, khẳng định vị thế nội địa và quốc tế. Các chương trình như Giải thưởng Quảng cáo Sáng tạo Việt Nam đã nâng cao thương hiệu quốc gia.
Tuy nhiên, bối cảnh kỹ thuật số đòi hỏi sửa đổi luật, đặc biệt về quản lý quảng cáo trực tuyến và trách nhiệm nền tảng xuyên biên giới. Đồng thời, cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp lồng ghép bản sắc văn hóa vào quảng cáo, nâng cao năng lực nguồn nhân lực và hợp tác công - tư để phát triển ngành. Đây là những bước cần thiết để quảng cáo tiếp tục thúc đẩy kinh tế và quảng bá văn hóa bền vững.
Trong thời đại kỹ thuật số, quảng cáo không chỉ là công cụ tiếp thị mà còn mang tính định hướng xã hội và văn hóa. Tuy nhiên, Luật Quảng cáo năm 2012 đã bộc lộ nhiều hạn chế khi đối diện với sự bùng nổ của các nền tảng số và xu hướng tiếp thị mới.
Do đó, Bộ VHTTDL đang gấp rút chỉnh sửa Luật Quảng cáo và đã được thảo luận lần đầu tại Quốc hội trong Kỳ họp thứ 8 vừa qua. Phát biểu của các đại biểu Quốc hội có ý nghĩa rất lớn trong việc phản biện, góp ý và điều chỉnh nội dung dự thảo, đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích doanh nghiệp và giá trị cộng đồng. Điều này không chỉ giúp ngành Quảng cáo phát triển lành mạnh mà còn góp phần xây dựng hình ảnh văn hóa Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế.
Đại biểu Quốc hội bấm nút thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035 tại Kỳ họp thứ 8 - Ảnh: Cổng thông tin điện tử Quốc hội
Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa: Động lực bền vững cho tương lai
Năm 2024, Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035 đã được Quốc hội thông qua. Đây là một chiến lược quan trọng của ngành VHTTDL, đóng vai trò then chốt trong việc thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Đảng về phát triển văn hóa. Chương trình này không chỉ nhắm đến việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống mà còn thúc đẩy sự đổi mới sáng tạo trong môi trường văn hóa hiện đại, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững của đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Mục tiêu chính của chương trình là xây dựng một môi trường văn hóa lành mạnh, kết hợp hài hòa giữa giá trị truyền thống và sự tiếp thu các yếu tố hiện đại. Việc này không chỉ giúp bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc mà còn tạo điều kiện cho sự phát triển của các ngành Công nghiệp văn hóa, từ đó đóng góp vào tăng trưởng kinh tế quốc gia. Cùng với đó, chương trình đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của người dân, nhất là tại các vùng sâu, vùng xa. Điều này giúp thu hẹp khoảng cách về cơ hội tiếp cận văn hóa giữa các khu vực, tạo sự công bằng trong việc xây dựng và phát triển đời sống tinh thần cho mọi tầng lớp xã hội.
Phát triển các ngành Công nghiệp văn hóa là một trong những mục tiêu quan trọng của chương trình, nhằm tạo ra nguồn lực kinh tế bền vững từ chính văn hóa. Các lĩnh vực như điện ảnh, âm nhạc, mỹ thuật và thiết kế không chỉ mang lại giá trị tinh thần mà còn tạo việc làm, đồng thời thúc đẩy quảng bá hình ảnh quốc gia ra thế giới, góp phần nâng cao giá trị thương hiệu quốc gia, đồng thời thể hiện sức mạnh mềm của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Để đạt được những mục tiêu này, tiếp theo chương trình cần triển khai một số bước đi quan trọng như đầu tư cơ sở hạ tầng văn hóa ở các địa phương, đặc biệt là tại các vùng khó khăn. Việc xây dựng và cải thiện các thiết chế văn hóa cơ sở như nhà văn hóa, thư viện, rạp chiếu phim sẽ tạo ra những không gian thuận lợi để người dân có thể tiếp cận và hưởng thụ văn hóa. Đồng thời, việc đẩy mạnh xã hội hóa và huy động nguồn lực từ các tổ chức, doanh nghiệp sẽ giúp giảm bớt gánh nặng ngân sách nhà nước và tạo động lực phát triển bền vững trong lĩnh vực văn hóa.
Chuyển đổi số trong văn hóa cũng là một phần quan trọng trong chiến lược này, giúp các di sản văn hóa được số hóa, xây dựng các nền tảng trực tuyến và ứng dụng công nghệ trong sản xuất văn hóa. Điều này không chỉ giúp tăng cường khả năng lan tỏa của văn hóa Việt Nam trong và ngoài nước mà còn thúc đẩy sự sáng tạo và đổi mới trong các sản phẩm văn hóa.
Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035 không chỉ là một nỗ lực hiện tại mà còn là một bước đi quan trọng trong xây dựng một nền văn hóa Việt Nam mạnh mẽ, thích ứng và phát triển bền vững trong tương lai. Thành công của chương trình sẽ góp phần xây dựng một xã hội giàu bản sắc, công bằng, sáng tạo và hội nhập, đồng thời tạo ra những giá trị bền vững cho sự phát triển đất nước.
Phiên họp toàn thể lần thứ 8 của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội thảo luận, cho ý kiến về một số nội dung, trong đó có dự thảo Báo cáo thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo
Ảnh: Cổng thông tin điện tử Quốc hội
Hoàn thiện thể chế - Vai trò của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội trong hoạt động xây dựng pháp luật của Bộ VHTTDL
Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội đóng vai trò “nhạc trưởng” trong việc thúc đẩy hoàn thiện thể chế, giám sát quá trình thực hiện các chương trình, dự án lớn của ngành VHTTDL. Từ việc góp ý vào nội dung các dự thảo luật, tổ chức lấy ý kiến rộng rãi đến giám sát thực hiện các hoạt động, Ủy ban đã đảm bảo sự minh bạch, khoa học và đồng thuận xã hội trong từng chính sách và hoạt động của ngành.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa Ủy ban và Bộ VHTTDL không chỉ là biểu hiện của sự đồng lòng trong hệ thống chính trị mà còn là cơ sở để xây dựng các chính sách phù hợp với thực tiễn, đáp ứng kỳ vọng của nhân dân.
Năm 2024 là năm ghi nhận những dấu ấn quan trọng trong công tác hoàn thiện thể chế của ngành VHTTDL. Các nỗ lực xây dựng và sửa đổi Luật Di sản văn hóa, Luật Quảng cáo, cùng việc Quốc hội thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa đã tạo nên nền tảng pháp lý vững chắc, đồng thời khẳng định tầm quan trọng của văn hóa trong chiến lược phát triển bền vững của đất nước.
Thành công này không thể tách rời sự hợp tác hiệu quả giữa Bộ VHTTDL với Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, minh chứng cho sức mạnh của sự phối hợp liên ngành trong xây dựng và thực thi chính sách. Những thành tựu đạt được không chỉ mang ý nghĩa trước mắt mà còn là tiền đề để Việt Nam vững bước trên hành trình hội nhập, phát triển văn hóa song hành với kinh tế và xã hội, vì một tương lai tươi sáng của đất nước Việt Nam.
PGS, TS. BÙI HOÀI SƠN
Nguồn: Đặc san "Dấu ấn ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch năm 2024"