Nằm bên bờ Nam sông Đuống tỉnh Bắc Ninh, làng Đông Hồ từ lâu đã nổi tiếng với nghề làm tranh dân gian, mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống. Cùng với thăng trầm của lịch sử, tranh dân gian Đông Hồ đã trở thành sản phẩm văn hóa tinh thần, có giá trị nghệ thuật đối với nhiều thế hệ người dân Việt Nam.
Gìn giữ nghề làm tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ
Đến với làng tranh Đông Hồ, chúng tôi ghé thăm gia đình Nghệ nhân Ưu tú (NNƯT) Nguyễn Đăng Chế - một trong 3 hộ dân còn giữ và đang tiếp tục làm nghề tranh dân gian trong làng. Bản thân ông Nguyễn Đăng Chế được sinh ra, lớn lên trong một gia đình có truyền thống làm tranh lâu đời. Ông đã gắn bó và yêu thích với khắc gỗ dân gian Đông Hồ hay còn gọi là tranh Đông Hồ từ khi còn là cậu bé 11 tuổi.
NNƯT Nguyễn Đăng Chế với dòng tranh dân gian Đông Hồ
Theo NNƯT Nguyễn Đăng Chế, nghề làm tranh khắc gỗ dân gian bắt đầu xuất hiện ở làng vào thời Lê Sơ (thế kỷ XV). Trước năm 1944 là lúc tranh dân gian đang ở thời kỳ phát triển nhất, cả làng có tới 17 dòng họ cùng nhau làm nghề. Tranh dân gian được tiêu thụ nhiều nhất vào dịp Tết đến xuân về. Vì vậy hằng năm, từ tháng 8 đến hết tháng 12 âm lịch, cả làng đều tất bật làm tranh phục vụ bán Tết.
Tham quan nhà làm tranh của nghệ nhân, tôi được chiêm ngưỡng những bức tranh Đông Hồ có nội dung đa dạng và phong phú, phản ánh đời sống, phong tục, tập quán, tâm linh, lịch sử đến giáo dục… của người dân Việt Nam như: Ngũ hổ, Quan Âm, Phật tổ, Phù Đổng Thiên vương, Bà Trưng, Bà Triệu, Phú quý, Gà đàn, Đấu vật, Hứng dừa, Tranh Tố nữ… Những hình ảnh quen thuộc đó đã ăn sâu vào tiềm thức của nhiều thế hệ người dân Việt Nam mỗi khi nhắc đến dòng tranh truyền thống này.
Giới thiệu với chúng tôi về quy trình tạo ra một trong những bức tranh dân gian độc đáo này, ông Nguyễn Đăng Chế cho biết: “Một bức tranh Đông Hồ ra đời phải trải qua 3 bước cơ bản: chuẩn bị giấy dó, in và phơi tranh. Đồng thời, một dụng cụ không thể thiếu trong quá trình làm tranh là những bản khắc gỗ với nhiều hình thù. Tất cả các công đoạn liên quan đến ván khắc gỗ đều được khắc thủ công nên nó mang đậm dấu ấn của mỗi nghệ nhân”.
Khác với dòng tranh Hàng Trống là “in ngửa ván”, tranh dân gian Đông Hồ có cách in độc đáo là “in úp ván”. “Với những nghệ nhân lành nghề, chỉ cần nhìn vào tranh, dựa vào độ đậm nhạt, nét in họ có thể biết ngay về trình độ, kỹ thuật cũng như tay nghề của người thợ” – nghệ nhân chia sẻ.
Các ván in khắc gỗ của tranh Đông Hồ
Những thành phần làm nên bức tranh dân gian Đông Hồ
Tính dân tộc của tranh dân gian Đông Hồ còn thể hiện qua cách chọn nguyên liệu vẽ tranh hoàn toàn từ thiên nhiên, đòi hỏi khá công phu. Theo nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, tranh Đông Hồ có 5 màu cơ bản, trong đó màu trắng được làm từ con điệp. Để làm ra màu trắng là khó nhất, bởi tìm được những con điệp đạt chất lượng là một công đoạn đầy khó khăn, thách thức; màu đỏ làm từ sỏi, chỉ có ở sân bay Kép tỉnh Bắc Giang; màu vàng được làm từ hoa hòe - một vị thuốc Bắc khá đắt đỏ; lá tràm làm màu xanh, tuy nhiên phải lên tận vùng đồng bào dân tộc Nùng ở Bắc Giang; còn màu đen được làm từ việc đốt lá tre lấy than, đây cũng là công việc đòi hỏi kỹ thuật rất cao.
Phát huy giá trị tinh hoa nghề dân gian truyền thống
Trước đây, nghề làm tranh dân gian đã từng là kế sinh nhai của hàng trăm hộ gia đình làng Đông Hồ. Theo dòng thời gian, cùng với sự thay đổi về kinh tế - xã hội, nghề làm tranh dân gian đang đứng trước nguy cơ dần bị mai một. Hiện nay, tại làng Đông Hồ chỉ còn ba hộ gìn giữ, duy trì nghề làm tranh truyền thống này, đó là gia đình NNƯT Nguyễn Đăng Chế, NNƯT Nguyễn Hữu Quả và NNƯT Nguyễn Thị Oanh.
Con gái NNƯT Nguyễn Đăng Chế tiếp bước cha học vẽ tranh dân gian
Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế cho biết, từ năm 1992 ông đã thu thập, mua lại những bản khắc của các gia đình rời nghề, sau đó khôi phục các mẫu tranh đã bị thất lạc. Năm 2008, ông xây dựng Trung tâm lưu giữ, bảo tồn tranh dân gian với hơn 100 bản khắc gỗ cổ và gần 1.000 bản khắc mới. Đến nay, Trung tâm là nơi bảo tồn, lưu giữ tranh Đông Hồ lớn nhất cả nước, là địa chỉ quen thuộc của những người yêu quý và mong muốn tìm hiểu nghề làm tranh truyền thống. Quyết tâm không để nghề truyền thống mai một, nghệ nhân còn truyền dạy cho tất cả con cháu trong gia đình. Các thành viên của gia đình ông, giờ đây trở thành những hướng dẫn viên giới thiệu đến du khách trong và ngoài nước về lịch sử hình thành, cũng như cách thức thực hiện làm ra một bức tranh Đông Hồ cho khách tham quan.
Đặc biệt, Trung tâm lưu giữ, bảo tồn dòng tranh dân gian Đông Hồ của gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế trở thành một trong những nơi trải nghiệm của các em học sinh đến học tập chương trình giáo dục địa phương. “Tôi mong muốn gìn giữ, bảo tồn những giá trị tinh hoa của dòng tranh truyền thống Đông Hồ. Đồng thời, giới thiệu rộng rãi đến du khách cũng như các em học sinh về quy trình sáng tạo nên một bức tranh khắc gỗ dân gian, để mọi người hiểu hơn về tranh dân gian nổi tiếng đã tồn tại và phát triển cùng với dòng chảy lịch sử đất nước” – NNƯT Nguyễn Đăng Chế bày tỏ.
Không gian trưng bày tranh dân gian Đông Hồ tại Trung tâm lưu giữ, bảo tồn dòng tranh dân gian Đông Hồ của gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế
Bên cạnh tâm huyết của các nghệ nhân, sự vào cuộc của cơ quan chức năng, chính quyền địa phương cũng đang góp phần hồi sinh nghề làm tranh Đông Hồ. Năm 2013, nghề làm tranh dân gian Đông Hồ được đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Năm 2017, nghề tranh Đông Hồ bắt đầu được lập hồ sơ quốc gia đề nghị UNESCO đưa vào danh sách các Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Tháng 3-2020, Việt Nam đệ trình UNESCO hồ sơ “Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ” để được xem xét ghi vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp.
Bên cạnh đó, tỉnh Bắc Ninh đã có nhiều giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy giá trị nghề làm dòng tranh quý này. Trong đó, tỉnh phê duyệt Đề án “Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa tranh dân gian Đông Hồ, huyện Thuận Thành, giai đoạn 2014-2020 và định hướng đến năm 2030”. Đầu năm 2023, tỉnh Bắc Ninh đã khánh thành Trung tâm Bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ. Từ khi đi vào hoạt động đến nay, Trung tâm Bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ đã đón trên 10.000 khách về tham quan tìm hiểu, trong đó có hơn 1.000 khách nước ngoài.
Bài, ảnh: PHƯƠNG THẢO