Quản lý hoạt động tu bổ, tôn tạo di tích ở Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay

Di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh (gọi tắt là di tích) được xem như sợi dây cố kết cộng đồng, giáo dục truyền thống lịch sử của dân tộc. Do đó, việc bảo tồn, tu bổ, chống xuống cấp và phát huy giá trị di tích không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà còn là sự nghiệp chung của cả cộng đồng. Bài viết đề cập đến công tác tu bổ, tôn tạo di tích ở Bắc Giang và đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích ở Bắc Giang trong thời gian tới.

Khu di tích chùa Bổ Đà là một danh lam cổ tự nổi tiếng của vùng Kinh Bắc xưa, nay thuộc xã Tiên Sơn (Việt Yên, Bắc Giang) - Ảnh: bacgiang.gov.vn

Hoạt động tu bổ, tôn tạo di tích ở Bắc Giang thời gian qua

Công tác quản lý hoạt động bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đã được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện và đã đạt được những kết quả khá tích cực. Việc phân cấp quản lý di tích bước đầu đã mang lại hiệu quả thiết thực. Đầu tư kinh phí từ nguồn ngân sách và huy động xã hội hóa cho công tác tu bổ, tôn tạo, phát huy giá trị di tích thường xuyên được quan tâm, có nhiều kết quả nổi bật. Trong năm 2024, 28 di tích được Nhà nước hỗ trợ kinh phí tu bổ với tổng kinh phí là 13.500.000.000 đồng; một số di tích đã trở thành địa điểm giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa, điểm du lịch văn hóa tâm linh hấp dẫn thu hút khách tham quan, góp phần phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương.

Nhìn chung, về cơ bản đa số các địa phương chấp hành tốt các quy định về bảo quản di tích trong quá trình tu bổ, tôn tạo như: có phương án bảo vệ tài liệu, hiện vật, đảm bảo các hiện vật được cất giữ, bảo vệ, giữ nguyên giá trị sau thời gian tu bổ, phục hồi di tích. Việc lập hồ sơ tu bổ, tôn tạo di tích được các chủ đầu tư, đơn vị tư vấn lập dự án, thiết kế bản vẽ thi công thực hiện có chất lượng tốt, đảm bảo đúng quy trình, trình tự theo quy định tại Nghị định 166/2018/NĐ-CP ngày 25-12-2018 của Chính phủ quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh. Quá trình thi công tu sửa được thực hiện theo trình tự được hướng dẫn chi tiết tại Thông tư số 15/2019/TT-BVHTTDL ngày 3-12-2019 của Bộ VHTTDL quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích. Chất lượng thi công các hạng mục công trình đảm bảo chất lượng, các nội dung phát sinh thay đổi phù hợp với thực trạng hạng mục công trình tại di tích. Trong quá trình thi công không có di tích nào xảy ra tình trạng mất an ninh, an toàn lao động, tiến độ thi công công trình thực hiện đúng hợp đồng đã ký.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý hoạt động bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích trên địa bàn tỉnh còn một số tồn tại, hạn chế: Việc đầu tư tu bổ, tôn tạo, phát huy giá trị di tích chưa thực sự được quan tâm; công tác phối hợp giữa các ngành và địa phương trong việc tuyên truyền, quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích chưa chặt chẽ; hoạt động của Ban Quản lý di tích cơ sở một số nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả hoạt động không cao; một số địa phương chưa kịp thời kiện toàn Ban quản lý di tích khi có thay đổi, bổ sung thành viên; chưa phát huy hiệu quả vai trò của Ban quản lý di tích. Công tác quản lý ở một số di tích được giao cho lãnh đạo thôn hoặc chi hội người cao tuổi, hội bản tự, hội chân quy, thủ nhang thực hiện. Một số nơi tự ý tu bổ di tích, sơn thếp hiện vật trong di tích không tuân thủ quy định của pháp luật về đầu tư xây dựng và tu bổ di tích. Một số di tích tu bổ, tôn tạo không đúng với hồ sơ thiết kế đã được thẩm định, thỏa thuận; đưa vào di tích đồ thờ tự không phù hợp với tính chất của di tích… làm ảnh hưởng đến việc giữ gìn yếu tố gốc cấu thành di tích, gây dư luận không tốt trong nhân dân. Công tác tiếp nhận hiện vật ở một số di tích chưa đảm bảo theo quy định, việc tiếp nhận chủ yếu thực hiện theo ý thức chủ quan của thành viên Ban quản lý di tích và người cung tiến, không tham khảo ý kiến của cơ quan chuyên môn; một số di tích bài trí hiện vật không phù hợp: chùa Quang Biểu (phường Quang Châu, thị xã Việt Yên), đình Mai Sơn (xã Hùng Sơn, huyện Hiệp Hòa), chùa Nùa (xã Nghĩa Hưng, huyện Lạng Giang)…

Bên cạnh đó, việc cập nhật các quy định hiện hành về tu bổ, tôn tạo di tích của Ban quản lý di tích cơ sở của chủ đầu tư chưa kịp thời, một số chủ đầu tư chưa làm hết trách nhiệm do vậy còn nhiều hạn chế như: việc lưu giữ hồ sơ tu bổ, tôn tạo, phục hồi di tích còn chưa đầy đủ; việc quản lý, giám sát công tác thi công tu bổ tại hiện trường chủ yếu giao cho ban xây dựng và ban giám sát cộng đồng thực hiện…

Nguyên nhân của các hạn chế trên là do việc tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về di sản văn hóa ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo ở địa phương chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của di tích và những yêu cầu khoa học trong tu bổ, tôn tạo di tích dẫn đến việc ứng xử đối với di tích còn tùy tiện. Đội ngũ cán bộ được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ về lĩnh vực di tích của Phòng Văn hóa và Thông tin các huyện, thành phố còn ít, nhìn chung chưa đáp ứng được hết yêu cầu của công tác quản lý nhà nước về di tích trong giai đoạn hiện nay. Việc phân công trách nhiệm trong công tác quản lý nhà nước về di tích đối với các cấp, các ngành còn chưa cụ thể, rõ ràng dẫn đến thiếu sát sao, thiếu tính chủ động trong tổ chức và thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về di tích. Sự phối hợp giữa phòng chuyên môn của huyện, Ban Quản lý di tích, chính quyền địa phương và cộng đồng dân cư nơi có di tích chưa đồng bộ, chặt chẽ, dẫn đến việc kiểm tra, phát hiện, xử lý vi phạm về di tích còn chậm.

Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích

Một là, tuyên truyền nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về các hoạt động tu bổ, tôn tạo di tích trong cộng đồng dân cư địa phương

Trong thời gian tới, đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa ở cơ sở cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các cấp trong việc tuyên truyền, huy động các nguồn lực từ nhân dân đầu tư cho hoạt động chống xuống cấp, tu bổ, tôn tạo và phát huy tốt giá trị của các di tích trên địa bàn phụ trách. Việc tuyên truyền cần được tiến hành dân chủ, công khai, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân, các tổ chức, cá nhân tham gia bảo vệ, tu bổ, tôn tạo di tích. Các di tích được tu bổ, tôn tạo phải luôn được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật; bảo quản, giữ gìn tối đa yếu tố gốc; nâng cao tính bền vững, sự tồn tại lâu dài của di tích.

Đội ngũ văn hóa cơ sở, Ban quản lý di tích địa phương cần tăng cường công tác tuyên truyền Luật Di sản văn hóa, các văn bản của Chính phủ, Bộ VHTTDL, các bộ, ngành Trung ương và của UBND tỉnh để nâng cao nhận thức của người dân, thái độ trân trọng, hình thành ý thức chủ động bảo vệ di tích và đồng lòng, tự nguyện đóng góp nhân lực, vật lực... cho các hoạt động tu bổ, phục hồi di tích trên địa bàn.

Hai là, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, vận động nhân dân đồng lòng tự nguyện đóng góp nguồn lực cho hoạt động đầu tư tu bổ, tôn tạo di tích

Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành VHTTDL với các ban, ngành, đoàn thể liên quan, các xã/ thị trấn đối với công tác quản lý và huy động nguồn lực đầu tư cho tu bổ, tôn tạo di tích trong đó tập trung các hoạt động thông tin, tuyên truyền phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về công tác xã hội hóa hoạt động tu bổ, tôn tạo, chống xuống cấp di tích; xây dựng các cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư, đồng thời vận động thực hiện đa dạng hình thức huy động các nguồn vốn để tu bổ, chống xuống cấp di tích.

UBND các huyện, thành phố cần ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn tới các xã, phường, thị trấn tăng cường tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền về tầm quan trọng của công tác bảo tồn, tu bổ, tôn tạo, phát huy giá trị di tích bằng nhiều hình thức khác nhau. Tích cực áp dụng các hình thức tuyên truyền, cổ động trực quan như: Thiết kế tờ rơi, pa-nô, áp phích tuyên truyền Luật Di sản văn hóa trên các trục đường liên xã để đông đảo người dân nắm rõ; Đài Phát thanh các huyện, thành phố nên xây dựng chuyên mục bảo tồn và phát huy giá trị di tích với nội dung phong phú; Lồng ghép nội dung tuyên truyền về hoạt động tu bổ, tôn tạo di tích trong các buổi liên hoan, văn nghệ, hội họp của xã, thôn, tổ dân phố… Các xã, phường, thị trấn nên thiết lập trang web tuyên truyền văn bản pháp luật, các hoạt động có nội dung về quản lý, bảo vệ di tích ở địa phương, luôn cập nhật thông tin mới để người dân có nhiều cơ hội tiếp cận được thông tin một cách nhanh chóng, chính xác… Nâng tầm tổ chức kỷ niệm các ngày lễ, các lễ hội văn hóa truyền thống cùng các hoạt động văn hóa, văn nghệ, hội thi, hội diễn trên địa bàn thành các sự kiện văn hóa du lịch để thu hút khách tham quan đến địa phương. Qua đó, thu hút sự quan tâm và huy động được nguồn lực từ các tầng lớp nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý, tu bổ, tôn tạo di tích hiệu quả hơn.

Cần quan tâm chú trọng xây dựng nội dung tuyên truyền với nội dung ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, phù hợp với từng đối tượng cụ thể; mở cuộc vận động sâu rộng để quán triệt pháp luật về di sản văn hóa và tầm quan trọng của việc bảo tồn, tu bổ, phát huy giá trị di tích đến các tổ chức đoàn thể xã hội, các hội và cộng đồng dân cư địa phương trên địa bàn. Lồng ghép công tác tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị di tích với các chương trình phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng nông thôn mới trên địa bàn theo hướng bền vững, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.

 Quan tâm đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý di sản văn hóa ở cơ sở; trang bị cho họ những kiến thức, kỹ năng cơ bản về quản lý; kỹ năng tuyên truyền, vận động, huy động các lực lượng xã hội tham gia vào hoạt động bảo tồn, tu bổ, chống xuống cấp và phát huy giá trị di tích; củng cố, kiện toàn Ban quản lý di tích cơ sở và hướng dẫn nghiệp vụ cho họ bởi đây là một trong những đội ngũ gần dân, hằng ngày tiếp xúc với dân để có thể tranh thủ tuyên truyền, vận động sự tham gia đóng góp của họ cho hoạt động tu bổ, tôn tạo di tích trên địa bàn.

Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích, khen thưởng, nêu gương tập thể, cá nhân, địa phương có nhiều thành tích trong công tác bảo tồn, tôn tạo di tích. Hằng năm, các cấp, các tổ chức xã hội ở cơ sở cần tổ chức đánh giá sơ kết, tổng kết về kết quả thực hiện công tác xã hội hóa của địa phương; có hình thức khen thưởng xứng đáng những tổ chức, cá nhân đóng góp tích cực đối với hoạt động tu bổ, tôn tạo di tích. Đối với các doanh nghiệp cần có những chính sách ưu đãi khi tham gia đầu tư kinh phí cho các hoạt động trùng tu, tôn tạo di tích. Chú ý phát hiện và nhân rộng các mô hình hoạt động hiệu quả, các tổ chức, cá nhân tích cực tham gia vận động, đóng góp xã hội hóa tu bổ, chống xuống cấp di tích trên địa bàn. Ban hành chính sách quản lý và sử dụng các nguồn tài chính huy động từ cộng đồng theo hướng ưu tiên cho việc trùng tu, tu bổ, tôn tạo di tích.

Ba là, thu hút nguồn lực đầu tư cho hoạt động tu bổ, tôn tạo di tích dựa trên sự giám sát của Nhà nước

Từ những vấn đề thực tiễn cho thấy, bên cạnh nguồn ngân sách Nhà nước đầu tư cho hoạt động tu bổ, tôn tạo di tích còn hạn hẹp... trong khi đó, một số di tích hiện nay lại đang được đầu tư tu bổ với tổng mức kinh phí nhiều tỷ đồng, vì thế, để tạo lập môi trường thu hút nguồn lực đầu tư tu bổ, tôn tạo di tích cần có các giải pháp đẩy mạnh hoạt động xã hội hóa nhằm huy động các nguồn lực ngoài nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, tìm nguồn vốn tài trợ từ các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh để trùng tu, tôn tạo di tích. Vận động các doanh nghiệp địa phương hỗ trợ thực hiện công tác chống xuống cấp, tu bổ, tôn tạo các di tích trên tinh thần tự nguyện, tự giác, nhưng vẫn đảm bảo vai trò quản lý của Nhà nước. Quản lý và sử dụng nguồn kinh phí xã hội hóa công khai, minh bạch, đúng mục đích.

Tuy nhiên, Nhà nước cần tiếp tục tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát với các di tích ở địa phương có nguồn vốn xã hội hóa trong đầu tư, từ tu bổ, tôn tạo đến quá trình khai thác, phát huy các giá trị của di tích, nhằm đảm bảo tối đa thực hiện nguồn vốn xã hội hóa đúng mục đích, khuyến khích tăng cường cơ chế “xã hội hóa” hoạt động bảo tồn di tích, phục vụ tốt hơn nữa nhu cầu hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng xã hội, người dân quanh di tích.

Quản lý, định hướng các nguồn vốn huy động từ trong nhân dân phát tâm công đức đầu tư tu bổ, tôn tạo di tích. Thực tế là đối với các di tích là công trình tín ngưỡng, tôn giáo thì việc kêu gọi đầu tư linh hoạt hơn, huy động vốn nhanh, đầu tư vốn hiệu quả và đúng mục tiêu hơn. Tuy nhiên, việc huy động nguồn vốn lại dễ mắc lỗi về quy trình thủ tục trong đầu tư (đặc biệt là các sư trụ trì chùa), và người dân phát tâm công đức chưa thật đúng quy trình đầu tư theo luật định. Khi sử dụng nguồn vốn xã hội hóa, các chủ đầu tư nên chú trọng thực hiện đúng quy định.

Bốn là, tăng cường thanh tra, kiểm tra các hoạt động bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích

Cơ quan quản lý cần tăng cường giám sát chuyên môn các hoạt động bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích, để nâng cao chất lượng thực hiện các dự án tu bổ di tích; hướng dẫn các địa phương thực hiện đúng quy trình, quy định, thủ tục triển khai các dự án tu bổ di tích; trong đó có việc triển khai thực hiện đúng các nội dung thẩm định dự án, báo cáo kinh tế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công tu bổ di tích đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về VHTTDL thỏa thuận. Chủ động kiểm tra hoạt động bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích nhằm phát hiện kịp thời, có phương án xử lý dứt điểm theo quy định của pháp luật các hành vi vi phạm.

Bên cạnh đó, phát huy vai trò giám sát của cộng đồng, để kịp thời phát hiện các sai sót có thể xảy ra trong quá trình triển khai các dự án tu bổ, tôn tạo di tích, để điều chỉnh, khắc phục, tránh để xảy ra sai phạm sau đó mới xử lý nhằm bảo vệ tối đa các yếu tố gốc cấu thành di tích.

Năm là, tuyên truyền phát huy vai trò, trách nhiệm của cộng đồng

Phát huy vai trò, trách nhiệm của cộng đồng trong hoạt động tu bổ, tôn tạo di tích với phương châm “đưa di tích về cộng đồng”, có nghĩa là, cư dân địa phương tham gia vào việc quản lý, bảo vệ di tích, đồng thời quan tâm đến lợi ích cộng đồng; coi trọng giải quyết các mối quan hệ giữa trách nhiệm và lợi ích của cộng đồng cư dân trong toàn bộ các hoạt động bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích. Bên cạnh đó, tuyên truyền nhằm xây dựng, vun đắp giá trị bền vững chính là “tính thiêng” của mỗi di tích, để vừa tạo ra sự riêng biệt của di tích, vừa thu hút du khách thập phương đến tham quan. Tích cực vận động nhân dân tham gia công tác bảo vệ, trùng tu, phát huy giá trị di tích; xử lý nghiêm minh các hành vi xâm phạm di tích.

Cần tăng cường đẩy mạnh việc giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức của cộng đồng trong hoạt động quản lý. Cộng đồng phải được xem xét là nhân tố đầu tiên được hưởng lợi ích từ việc khai thác, phát huy giá trị di tích. Đây chính là động lực lâu dài, bền vững tác động trở lại quá trình bảo tồn khu di tích. Trên cơ sở cộng đồng tham gia vào quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di tích, hình ảnh địa phương được quảng bá rộng rãi, do vậy lợi ích người dân luôn phải được đặt lên hàng đầu, đây chính là yếu tố then chốt gắn kết cộng đồng với di tích.

___________________

Tài liệu tham khảo

1. Đặng Văn Bài, Tu bổ và tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa là hoạt động có tính đặc thù chuyên ngành, Tạp chí Di sản văn hóa, số 2 (15), 2006.

2. Bộ VHTTDL, Thông tư số 15/2019/TT-BVHTTDL ngày 31-12-2019 Quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích, 2019.

3. Chính phủ, Nghị định số 166/2018/NĐ-CP ngày 25-12-2018 Quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, 2018.

4. Quốc hội, Luật Di sản Văn hóa năm 2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 2009.

5. Sở VHTTDL Bắc Giang, Thông báo kết quả kiểm tra công tác quản lý, tu bổ, tôn tạo, phục hồi di tích trên địa bàn tỉnh Bắc Giang năm 2024.

6. Lưu Trần Tiêu, Mấy vấn đề về hoạt động tu bổ, phục hồi di tích lịch sử văn hóa, Tạp chí Di sản văn hóa, số 3, 2011, tr.3-7.

7. UBND tỉnh Bắc Giang, Quyết định về việc hỗ trợ kinh phí tu bổ di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn tỉnh Bắc Giang năm 2024.

Ngày Tòa soạn nhận bài: 30-11-2024; Ngày phản biện, đánh giá, sửa chữa: 6-12-2024; Ngày duyệt đăng: 2-1-2025.

ÂU VĂN TUẤN

Nguồn: Tạp chí VHNT số 593, tháng 1-2025

;