Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị

Hồ Chí Minh là người thày, là nhà giáo dục vĩ đại của dân tộc. Những năm qua, quan điểm của Người về giáo dục, về người thầy là kim chỉ nam soi sáng sự nghiệp giáo dục của Đảng, Nhà nước ta. Đây là hệ thống những quan điểm toàn diện về vai trò, nhiệm vụ, phẩm chất đạo đức, chuyên môn và phương pháp giảng dạy của người thày. Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về người thày để có sự nhận thức đúng đắn, nhằm xây dựng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị (GVLLCT) lớn mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục - đào tạo trong giai đoạn hiện nay là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng.

1. Vị trí, vai trò, nhiệm vụ của đội ngũ GVLLCT trong các trường đại học, cao đẳng

Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nếu không có thày giáo thì không có giáo dục… Không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế văn hóa” (1); điều đó, vừa khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của nghề đặc biệt dạy chữ, dạy người, vừa nói lên trọng trách mà xã hội đặt trọn niềm tin lên vai nhà giáo.

Người khẳng định: “Còn gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Người thày giáo tốt - thày giáo xứng đáng là thày giáo, là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thày giáo tốt là những anh hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang. Nếu không có thày giáo dạy dỗ cho con em nhân dân thì làm sao mà xây dựng chủ nghĩa xã hội được? Vì vậy nghề thày giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang, ai có ý kiến không đúng về nghề thày giáo thì phải sửa chữa”(2). Vì vậy, “không có thày giáo thì không có giáo dục” (3). Người thày giáo có trách nhiệm truyền bá cho thế hệ trẻ lý tưởng đạo đức chân chính, hệ thống các giá trị, tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại, bồi dưỡng cho họ những phẩm chất cao quý và năng lực sáng tạo phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của xã hội. “Nhiệm vụ giáo dục là rất quan trọng và vẻ vang, nếu không có thày giáo thì không có giáo dục…không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế, văn hóa” (4). Thày giáo là người định hướng, dẫn dắt thế hệ trẻ từng bước nắm bắt chân lý thời đại, cho nên mọi tài liệu, giáo trình dù hay đến đâu nếu không có thày giáo hướng dẫn thì không phát huy hết tác dụng đối với thế hệ trẻ.

Giảng viên lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng là một bộ phận của đội ngũ giảng viên các trường đại học, cao đẳng thực hiện nhiệm vụ giảng dạy 5 môn lý luận chính trị, bao gồm: Triết học Mác - Lênin, Kinh tế Chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Đội ngũ GVLLCT đóng góp một phần rất quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo của các trường đại học, cao đẳng. Đội ngũ GVLLCT trong các trường đại học, cao đẳng không chỉ đơn thuần làm nhiệm vụ giảng dạy các môn lý luận chính trị mà còn còn nhiệm vụ giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức cho sinh viên, nghiên cứu khoa học và tham gia vào các hoạt động chính trị xã hội.

2. Phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức của đội ngũ GVLLCT

Đạo đức nhà giáo hay đạo đức nghề dạy học theo tư tưởng của Người, có thể được hiểu là những quy tắc, chuẩn mực quy định thái độ, hành vi ứng xử của nhà giáo trong đời sống và đạo đức nhà giáo có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục đào tạo. Người căn dặn: “Thày cũng như trò, cán bộ cũng như nhân viên phải thật thà yêu nghề của mình”. Bên cạnh đó, theo Hồ Chí Minh, đạo đức nhà giáo yêu nghề, yêu trường thôi chưa đủ mà còn phải yêu chủ nghĩa xã hội bởi đó là mục tiêu mà dân tộc đang hướng tới.

Đối với việc lựa chọn người giảng dạy lý luận chính trị, Hồ Chí Minh cho rằng không phải ai cũng huấn luyện được nhất là người huấn luyện của Đoàn thể cần phải có trình độ hiểu biết chuyên sâu. Người đã đặt vấn đề “phải lựa chọn rất cẩn thận những nhân viên phụ trách việc huấn luyện đó”, người huấn luyện phải làm kiểu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc.

Người phân biệt rõ vị trí khác nhau của người thày trong xã hội cũ và xã hội mới. Xưa, nghề thày giáo là gõ đầu trẻ để kiếm cơm ăn, nay là sự nghiệp quan trọng trăm năm trồng người, để thực hiện nhiệm vụ nặng nề và cao cả đó, người thầy phải có năng lực phẩm chất cao, phải có lòng yêu nghề, yêu trẻ, phải “làm kiểu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc” (5).

Phẩm chất chính trị đòi hỏi ở mỗi người thày giáo đó là giữ vững lập trường giai cấp vô sản. Đội ngũ GVLLCT phải thể hiện sự nhạy cảm về tình hình chính trị, sắc sảo trong phân tích khoa học, đánh giá đúng bản chất những hiện tượng chính trị - xã hội mới. Đối với đội ngũ GVLLCT, yêu cầu về phẩm chất chính trị là rất quan trọng. Bởi lý luận chính trị là vũ khí sắc bén của giai cấp công nhân, nhân dân lao động để đấu tranh thoát khỏi sự áp bức bóc lột, do đó đội ngũ GVLLCT phải có phẩm chất chính trị tốt. Trước hết, phải là những người trung thành với lý tưởng của giai cấp công nhân, lý tưởng giải phóng mọi tầng lớp lao động khỏi áp bức bóc lột, bất công, nghèo nàn lạc hậu. Tiếp đó, GVLLCT phải có tinh thần cách mạng, truyền bá tinh thần đó trong xã hội, có tâm huyết với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và Đảng tiền phong.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh tài phải đi liền với đức. Đối với nhà giáo, phẩm chất đạo đức thương yêu học trò và yêu nghề có mối quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ nhau. Thương yêu học trò sẽ dẫn đến yêu nghề và ngược lại, yêu người bao nhiêu, yêu nghề bấy nhiêu. Theo Người, người thày giáo phải quan tâm, săn sóc học trò với tình cảm sâu nặng như ruột thịt, song cách thể hiện phải phù hợp với từng lứa tuổi và cấp học. Người nói: “Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức. Ví như bảo học trò phải dạy sớm mà giáo viên thì trưa mới dạy. Cho nên thày giáo, cô giáo phải gương mẫu” (6). “Học trò tốt hay xấu là do thầy giáo, cô giáo tốt hay xấu” (7). Người thày có ý thức về sự gương mẫu của mình tức là đang tự hoàn thiện mình. Người thày dạy học trò về phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân, thương yêu lẫn nhau; đoàn kết nội bộ; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Gương mẫu về lĩnh vực đó, nghĩa là người thày đang trên con đường xây dựng đạo đức cho mình.

Cùng với phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng là một trong những tiêu chuẩn đòi hỏi người GVLLCT phải không ngừng nâng cao để hoàn thiện mình. Đối với người GVLLCT, đạo đức cách mạng đòi hỏi cao hơn giảng viên ở các môn học khác. Bởi vì, họ không chỉ là giảng viên khoa học, có nhiệm vụ giáo dục cho sinh viên các tri thức khoa học lý luận mà còn gọi là người tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, hình thành niềm tin, hình thành lý tưởng, lẽ sống, chuẩn mực đạo đức cho thế hệ trẻ. Đạo đức cách mạng của người GVLLCT được thể hiện ở hoạt động giảng dạy hàng ngày. Đó là niềm đam mê giảng dạy, nghiên cứu khoa học, phấn đấu cho sự nghiệp trồng người, là sự phê bình và tự phê bình để không ngừng tiến bộ, là giản dị nhưng thể hiện đầy đủ phong cách mô phạm của một nhà giáo. Đạo đức cách mạng của người GVLLCT còn chứa đựng cả trí tuệ khoa học, tình cảm cách mạng, đạo đức phẩm chất và nhân cách.

Do đó, xây dựng đội ngũ GVLLCT trong các trường đại học, cao đẳng đòi hỏi hướng tới hình thành một đội ngũ bảo đảm về số lượng, đáp ứng trình độ chuyên môn. Trong đó, đặc biệt chú ý bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng cho đội ngũ này

3. Đội ngũ GVLLCT phải giỏi về chuyên môn, vững về phương pháp

Về kiến thức chuyên môn, Người nhấn mạnh, đã là thày giáo thì “phải hơn học trò cái đầu”. Do đó, người thày giáo phải được đào tạo, bồi dưỡng về các mặt: Đạo đức cách mạng, lý luận, quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng, chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp giảng dạy. Theo Hồ Chí Minh, một nhà giáo giỏi không đòi hỏi phải tinh thông tất cả mọi lĩnh vực, hiểu hết tri thức của nhân loại, nhưng do yêu cầu của nghề nghiệp nên nhà giáo phải không ngừng trau dồi kiến thức, đặc biệt phải thành thạo lĩnh vực chuyên môn của mình, đáp ứng ngày càng tốt hơn sự nghiệp giáo dục đào tạo; hoàn toàn không được bằng lòng với kiến thức đã có, thường xuyên tích luỹ kiến thức, tự học, tự bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, phương pháp sư phạm để thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.

Trong Đại hội chiến sĩ thi đua toàn ngành Giáo dục ngày 21-2-1956, Người đã ân cần căn dặn: “Các cô, các chú là những thày giáo, những cán bộ giáo dục đều phải luôn luôn cố gắng học thêm, học chính trị, học chuyên môn. Nếu không tiến bộ mãi thì sẽ không theo kịp đà tiến chung, sẽ trở thành lạc hậu” (8).

Trên tinh thần nắm vững quan điểm “bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Người huấn luyện phải học thêm mãi thì mới làm được công việc huấn luyện của mình... Người huấn luyện nào tự cho là mình đã biết đủ cả rồi, thì người đó dốt nát” (9).

Người dẫn lại câu nói của Khổng Tử: “Học không biết chán, dạy không biết mỏi” và lời dạy của V.I.Lênin: “Học, học nữa, học mãi”, học phải đi đôi với hành, học để hành ngày càng tốt hơn nhằm nhấn mạnh rằng người huấn luyện nào tự mãn cho mình giỏi rồi mà dừng việc học lại là lùi bước, là lạc hậu, là tự đào thải mình. Phải thường xuyên tự bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, phương pháp sư phạm để hoàn thành tốt nhiệm vụ, thực sự là tấm gương sáng về học tập cho học sinh noi theo. Người viết: “Giáo viên cũng phải tiến bộ cho hợp thời đại thì mới hoàn thành nhiệm vụ. Chớ tự túc, tự mãn, cho là giỏi rồi thì dừng lại. Mà dừng lại là lùi bước, là lạc hậu, mình tự đào thải trước. Cho nên phải cố gắng học tập để cải tạo mình, cải tạo tư tưởng của mình, cải tạo con em và giúp vào việc cải tạo xã hội” (10). Bản thân Người là hiện thân của một nhà giáo cách mạng, suốt đời vì nước, vì dân, vì nền giáo dục nước nhà, đời tư trong sáng giản dị, nói đi đôi với làm và là một tấm gương sáng ngời về tinh thần tự học. Người đã từng đứng trên bục giảng với tư cách là một nhà giáo, tự thiết kế nội dung chương trình, tổ chức lớp học, truyền đạt bằng phương pháp hiện đại.

Hồ Chí Minh cho rằng, do chức năng của mình, một đặc trưng, phẩm chất của người giảng dạy lý luận chính trị là phải không ngừng học tập, người giảng viên phải có lòng đam mê, khiêm tốn học tập, không có thái độ kỳ thị, học thêm mãi, biết kết hợp và làm giàu trí tuệ của mình. Người giảng viên nào tự cho mình là đã biết đủ cả rồi, thì người đó dốt nát nhất và người đó không thể làm công việc giảng dạy được. Người GVLLCT phải thực hiện học không biết chán, dạy không biết mỏi. Nếu ngưng học tập thì kiến thức lý luận đó sẽ trở nên cũ, xơ cứng, nó không phản ánh thực tiễn sinh động nên làm cho việc dạy và học không có hiệu quả.

Một trong những nhiệm vụ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân, đó là phải đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ GVLLCT.

Về yêu cầu đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học của người thày trong giáo dục lý luận chính trị. Hồ Chí Minh căn dặn: “Việc học tập lý luận chính trị không phải nhằm biến các đồng chí thành những người lý luận suông mà nhằm làm thế nào cho công tác của các đồng chí được tốt hơn, nghĩa là các đồng chí phải học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong cách mạng của chúng ta. Như thế học tập lý luận cốt để áp dụng vào thực tế” (11). Người cán bộ giảng dạy lý luận chính trị đòi hỏi phải có một nền tảng lý luận và vốn thực tiễn phong phú, để kiểm nghiệm lý luận và nâng nhận thức lý luận lên tầm cao mới. Có như thế người giảng viên mới có thể thực hiện mục tiêu giáo dục lý luận: “Mục đích học để vận dụng chứ không phải học vì lý luận” (12). Đối với GVLLCT nói chung, GVLLCT trong các trường đại học, cao đẳng nói riêng, Người yêu cầu phải bồi dưỡng cho họ. Tất cả các đảng viên phải cố gắng học tập, coi việc học tập lý luận chính trị là nhiệm vụ quan trọng của mình. Bởi theo Người, lý luận là trí khôn của Đảng: “Đảng không có lý luận thì khác nào người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” (13).

Thời gian tới, bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Đặc biệt, chiến lược “diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư tưởng ngày càng quyết liệt, đặt ra nhiệm vụ hết sức nặng nề đối với đội ngũ GVLLCT. Đó là phải làm sao để tiếp tục khẳng định vị trí, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống xã hội. Làm sao phát huy tốt vai trò của mình góp phần nâng cao ý thức chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ. Do đó, cần phải:

Thứ nhất, quan tâm chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GVLLCT, hướng tới hình thành một đội ngũ chuẩn về trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức, kỹ năng, nghiệp vụ. Đặc biệt, đổi mới chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng GVLLCT nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng của đội ngũ này. Cần đưa thêm các tri thức khoa học tự nhiên dưới dạng môn học bắt buộc, môn học tự chọn hoặc chuyên đề vào chương trình đào tạo GVLLCT nhằm trang bị một hệ thống kiến thức toàn diện nhất cho đội ngũ này. Tổ chức, sắp xếp, điều hành các khâu của quá trình đào tạo, bồi dưỡng một cách khoa học, trong đó chú trọng đổi mới phương pháp giảng dạy.

Thứ hai, bổ sung, hoàn thiện các chế độ chính sách đối với đội ngũ GVLLCT và sinh viên các chuyên ngành đào tạo GVLLCT nhằm tạo động lực mạnh mẽ để phát triển đội ngũ. Đảng, Nhà nước đã có những chế độ, chính sách nhất định đối với đội ngũ này. Nhưng dường như những chính sách này chưa đủ để tạo thành sức hút đối với những người muốn theo nghiệp giảng dạy lý luận chính trị. Do đó, cần bổ sung chính sách có sức hút hơn nữa đối với mọi đối tượng trong xã hội. Đặc biệt, là những học sinh, sinh viên ưu tú vào học các chuyên ngành đào tạo GVLLCT.

Thứ ba, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với việc xây dựng đội ngũ GVLLCT cho các trường đại học, cao đẳng. Trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã có những chủ trương và sự chỉ đạo về xây dựng đội ngũ GVLLCT. Tuy nhiên, trước đòi hỏi của thực tiễn, cần phải có những chủ trương, sự chỉ đạo kịp thời, sát sao hơn nữa đối với việc xây dựng đội ngũ này.

_______________

1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1996, tr.184.

2. Hồ Chí Minh, sđd, tập 11, 2001, tr.329-330.

3. Hồ Chí Minh, sđd, tập 10, 2001, tr.345.

4. Hồ Chí Minh, sđd, tập 8, 1996, tr.184.

5. Hồ Chí Minh, sđd, tập 6, 2001, tr.46.

6. Hồ Chí Minh, sđd, tập 4, 2011. 

7. Hồ Chí Minh, sđd, tập 12, 2011, tr.269.

8. Hồ Chí Minh, sđd, tập 8, 2001, tr.126-127

9. Hồ Chí Minh, sđd, tập 6, 1995, tr.46. 

10. Hồ Chí Minh, sđd, tập 9,1995, tr.489. 

11, 12. Hồ Chí Minh, sđd, tập 2, 2002, tr.289

13. Hồ Chí Minh, sđd, tập 11, 2002, tr.607.

 

Tác giả :  Nguyễn Thị Hiền

Nguồn : Tạp chí VHNT số 409, tháng 7-2018

;