• Nghệ thuật > Văn học

NHÂN VẬT PHỤ NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN VIẾT VỀ CHIẾN TRANH SAU 1975

Boris Vasilyev từng nói: “Những cuộc chiến tranh có bắt đầu nhưng chẳng có kết thúc. Nó dai dẳng trên nước mắt những người vợ góa, người mẹ, nỗi buồn của trẻ mồ côi, tiếng rên rỉ của người lính bị thương. Những vết thương trên mặt đất biến dần, bãi chiến trường xưa thay bằng những luống cày mới, nhưng rất lâu, rất lâu trong mẩu bánh vẫn lưu lại mùi vị chua của bụi đất, thương đau” (1). Trải qua 30 năm kháng chiến, trong truyện ngắn Việt Nam đương đại, hình tượng người phụ nữ chiếm vị trí trung tâm, được nhiều tác giả lựa chọn ký thác tư tưởng về chiến tranh.

HIỆN TƯỢNG TỰ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ

Tự thuật là phương thức nhà văn sử dụng để đưa những yếu tố có thật trong cuộc đời cũng như hiện thực đời sống vào trong tác phẩm. Đó là cách thức tác giả tự nói về mình, tự kể chuyện mình nhằm hướng đến sự chia sẻ, cảm thông cũng như khẳng định cái tôi cá nhân mạnh mẽ. Trong tiểu thuyết của các nữ nhà văn Việt Nam xuất bản đầu TK XXI, hiện tượng tự thuật xuất hiện một cách phổ biến. Điều này có liên quan khá chặt chẽ với sự thức nhận mạnh mẽ những vấn đề liên quan đến ý thức nữ quyền của các nhà văn nữ. Đặc biệt, khuynh hướng này còn góp phần đưa đến việc hình thành một lối viết nữ trong văn chương.

KHÔNG - THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NỮ ĐƯƠNG ĐẠI

Truyện ngắn nữ đương đại ở Việt Nam thực sự là một hiện tượng độc đáo cần nhiều lời giải mã, đã tạo dựng được một thế giới nghệ thuật mang nét đặc trưng của phái nữ. Trong hệ quy chiếu không gian, thời gian nghệ thuật, những cặp tương quan không gian, những cảm thức về thời gian đã cho thấy một chiều sâu cảm thụ luôn hướng về gia đình, sự ổn định, nguồn cội, thấm đẫm cảm xúc, cảm giác của chủ quan con người. Thời gian nghệ thuật là “ý thức, cảm giác về sự vận động, đổi thay của thế giới trong các hình thức đa dạng của thời gian” (1). Không gian nghệ thuật “biểu hiện mô hình thế giới của con người, thể hiện quan niệm về trật tự thế giới, sự lựa chọn của con người” (2). Được coi là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ, là một hình tượng nghệ thuật, phản ánh quan niệm của nhà văn về thế giới, con người, cho thấy tư duy, chiều sâu cảm thụ của họ.

NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT CỦA YASUNARI KAWABATA

Nghệ thuật tự sự là sự tổ chức, sắp xếp, sáng tạo tác phẩm truyện thành những sinh mệnh nghệ thuật độc đáo ở hai cấp độ: kết cấu hình tượng, kết cấu trần thuật. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, nghệ thuật tự sự chỉ đi vào một phạm vi hẹp thuộc cấp độ kết cấu trần thuật là nghệ thuật kể chuyện cùng ngôn ngữ giàu tính biểu tượng qua bộ ba tiểu thuyết của Yasunari kawabata.

SỰ BIẾN ĐỔI LỜI VĂN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN TRUYỀN KỲ TRUNG ĐẠI

Lời văn nghệ thuật trong truyện truyền kỳ trở thành một tiêu chí nhận diện thể loại, dung hợp nhiều hình thức ngôn ngữ, phương thức biểu đạt của từng loại. Bên cạnh văn xuôi kể chuyện, truyện truyền kỳ còn có mặt nhiều dạng thức lời văn khác như thơ, phú, văn tế, câu đối… Đặc trưng hỗn dung này là phong cách chung của tự sự trung đại phương Đông, truyện truyền kỳ là thể loại đầu tiên thể nghiệm nó. Sự hợp lưu trong tổ chức lời văn được coi là một dấu ấn đặc thù của loại hình sáng tác này. Tuy vậy, ở tiến trình vận động của truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam, sự kết hợp nhiều hình thức thể loại không được duy trì liên tục mà ngày càng có xu hướng chuyển từ đa nguyên về đơn nhất.

MÔTIP LIÊN QUAN ĐẾN NHÂN VẬT PHẢN DIỆN TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ TÀY - THÁI

Dù xã hội có phát triển đến đâu thì truyện cổ tích vẫn giữ một vị trí quan trọng trong đời sống con người, bởi đó là mạch nguồn nuôi dưỡng tình cảm, đạo đức, giúp con người sống đẹp, nhân văn hơn. Truyện cổ tích gồm ba loại là: truyện cổ tích thần kỳ, truyện cổ tích sinh hoạt và truyện cổ tích loài vật, trong đó, truyện cổ tích thần kỳ là bộ phận quan trọng, tiêu biểu nhất. Làm nên giá trị, diện mạo của kho tàng truyện cổ tích các dân tộc Việt Nam nói chung, truyện cổ tích các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc nói riêng phải kể đến sự đóng góp của truyện cổ tích hai dân tộc Tày và Thái. Số lượng truyện cổ tích của hai tộc người này rất phong phú. Tư tưởng phổ quát trong truyện cổ tích các dân tộc là ước mơ, niềm tin về hạnh phúc của những con người bất hạnh, bé nhỏ trong xã hội. Những câu chuyện này được lưu truyền ở vùng cư trú của người Tày, người Thái thuộc vùng Đông Bắc, bao gồm các tỉnh: Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Hòa Bình.

LỐI KỂ CHUYỆN KHUẾCH TÁN TRONG TIỂU THUYẾT CÓ YẾU TỐ HẬU HIỆN ĐẠI

Nghệ thuật trần thuật luôn vận động để làm mới mình theo thời gian. Lyotard cho rằng TK XXI không có văn bản hay tác phẩm nữa mà chỉ có sự trải chữ trên bề mặt của văn bản. Điều này cũng thể hiện rõ quan niệm hậu hiện đại của ông là không còn tồn tại văn bản lớn nữa mà chỉ có những vi bản thức, tức là những mảng ý nghĩa, mảng đối thoại, những câu nói, những câu đang nghĩ. Quan niệm tiểu thuyết như một trò chơi thể hiện rõ nhất ở nghệ thuật trần thuật hỗn độn, lắp ghép, phi logic, chối bỏ đại tự sự, khước từ vai trò toàn tri của người kể chuyện ở ngôi thứ ba, nhân vật bị tẩy trắng, không gian nhòe mờ, thời gian đảo lộn, phi thực. Kundera, người coi tiểu thuyết như một trò chơi cộng hưởng giữa tác giả, văn bản, độc giả lại cho rằng: “Trong lãnh địa của tiểu thuyết, người ta không khẳng định đâu là lãnh địa của trò chơi, của những giả thuyết; sự chiêm nghiệm tiểu thuyết, do vậy trong bản thân của nó là có tính nghi vấn, giả thuyết” (1).

GIỌNG ĐIỆU THƠ XUÂN QUỲNH SAU 1975

Hiện ra như một yếu tố cơ bản thuộc phong cách nghệ thuật, giọng điệu văn chương cho phép người đọc nhận ra vẻ riêng của nghệ sĩ. Với Xuân Quỳnh, ngay từ những bài thơ đầu tay, có thể thấy rõ chất giọng của một người đàn bà khát yêu, khát sống, một trái tim phụ nữ quá mẫn cảm với sự chảy trôi, đổi thay. Cùng với những bước thăng trầm của cuộc đời, chất giọng này ngày càng hiện rõ, trở nên khắc khoải ở những tập thơ sau chiến tranh của chị. Điều này đã góp phần làm nên một cái tôi Xuân Quỳnh luôn băn khoăn xao động, phấp phỏng những âu lo nhưng lúc nào cũng trẻ trung, tươi mới, tràn đầy niềm tin yêu như sức xuân mười bảy.

HÀI HƯỚC ĐEN TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI

Từ sau 1975, văn xuôi đã chuyển dần từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết. Không khí chiến tranh dần lui vào dĩ vãng, chất sử thi nhạt dần. Sau mấy chục năm miêu tả cái anh hùng, cao cả, nay văn học có điều kiện đi sâu vào khai thác cái đương đại đang diễn ra, biến đổi với không ít những mảng màu đen tối, nhức nhối của cuộc sống thời kinh tế thị trường. Không khí dân chủ, tinh thần dũng cảm “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật” đã khuyến khích các nghệ sĩ khám phá mặt trái, mặt tiêu cực của đời sống. Cái hài cuộc đời được chuyển hóa thành cái hài văn học với sự xuất hiện phong phú các sắc thái tiếng cười hài hước, phê phán, suy ngẫm, âu lo… trong tiểu thuyết từ sau 1986. Trong đó, đáng chú ý là sắc thái hài hước đen góp phần thể hiện sự vận động của tiếng cười từ truyền thống đến hiện đại.

CỐT TRUYỆN SỰ TÍCH ĐỘNG TỪ THỨC TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC

Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là một tác phẩm văn học nổi tiếng của TK XVI. Tuy là văn học viết nhưng truyền kỳ dựa trên cơ sở truyền thống tự sự dân gian, khai thác các môtíp, nhân vật, cốt truyện, thậm chí cả lối kể dân gian. Muốn tìm nét đặc trưng hoặc so sánh ảnh hưởng của truyền kỳ giữa các dân tộc trong khu vực đồng văn, phải xuất phát từ kho tàng truyện dân gian của dân tộc đó. Truyền kỳ lấy yếu tố kỳ ảo làm phương thức thể hiện nội dung nhưng mức độ của cái kỳ ảo phụ thuộc vào truyền thống thẩm mỹ, nhu cầu lịch sử của dân tộc. Bài viết trình bày về một cốt truyện dân gian Việt Nam tiêu biểu, đó là sự tích Động Từ Thức được sử dụng trong Truyền kỳ mạn lục.

VỀ CÁCH XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NÔM

Truyện Nôm là một thể loại đặc biệt của văn học viết Việt Nam trung đại. Xung quanh tên gọi thể loại này có nhiều ý kiến, cách gọi khác nhau như: truyện thơ, tiểu thuyết văn vần... Đây cũng có thể được coi là một thể loại tự sự bằng thơ, tiêu biểu cho văn học cổ điển Việt Nam, nở rộ vào cuối TK XVIII, đầu TK XIX, do viết bằng tiếng Việt nên được gọi là truyện Nôm. Truyện Nôm, dù khuyết danh hay hữu danh, bình dân hay bác học cũng đều là tác phẩm viết bằng chữ Nôm, thể văn vần, phản ánh cuộc sống bằng phương thức tự sự. Trong đó, biện pháp xây dựng nhân vật là một yếu tố quan trọng làm nên giá trị của truyện.