YẾU TỐ CHĂM TRONG NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC CHÙA THÀY

 

Sự thống nhất toàn vẹn quốc gia Việt Nam hiện nay chính là sự hợp nhất của Đại Việt, Chăm Pa, Chân Lạp. Quan hệ giao lưu Chăm - Việt diễn ra mạnh nhất vào giai đoạn Lý - Trần, kéo dài đến cuối TK XV và còn tàn dư ở TK XVII. Cùng mối liên hệ cội nguồn là văn hóa Nam Á, mối quan hệ Chăm -Việt có một quá trình phát triển liên tục, lâu dài và toàn diện trên các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, ngôn ngữ, văn hóa và đặc biệt là nghệ thuật. Tuy nhiên, dấu ấn văn hóa Chăm không nổi trội, rõ nét trong lòng Đại Việt mà len lỏi ở nhiều vùng miền, đậm đặc ở miền Trung rồi lan tỏa từ trung tâm cho đến ngoại vi Thăng Long. Sau nhiều thế kỷ hòa huyết chung sống, văn hóa Chăm đã tồn tại dưới những mảnh vỡ thiêng trong di tích, đời sống, tín ngưỡng, nghệ thuật Việt.

Yếu tố Chăm trong nghệ thuật điêu khắc Phật giáo Việt Nam

Chăm là cách gọi rút gọn của từ Champa để chỉ quốc hiệu đất nước của người Chăm, xuất hiện sớm nhất trong bia ký vào cuối TK VI. Thuộc nhóm ngữ hệ Nam Đảo, một bộ phận của nhóm loại hình Indonésien, người Chăm trước kia cư trú rải rác từ nam đèo Ngang đến Bình Thuận. Hiện nay, họ cư trú ở tám tỉnh thành, tập trung chủ yếu ở Ninh Thuận, Bình Thuận, số còn lại ở An Giang, Phú Yên, Bình Định, Tây Ninh, Đồng Nai.

Ngay từ sau khi lập quốc, khoảng TK II sau CN, người Chăm đã thoát dần khỏi ách đô hộ của Trung Hoa để tự do tiếp nhận nền văn hóa Ấn Độ cho đến tận TK XV, khi Champa chấm dứt sự tồn tại với tư cách quốc gia của mình. Qua chừng đó thời gian, sự tiếp nhận ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ đủ đậm đặc trong văn hóa Chăm về mọi mặt, từ tôn giáo, thể chế chính trị đến văn hóa nghệ thuật. Cũng như bất kỳ sự giao lưu văn hóa nào, bên cạnh sự nổi trội của yếu tố ngoại lai thì yếu tố nội sinh, bản địa là thành tố hết sức quan trọng để tạo nên đặc trưng của văn hóa vùng. Bởi vậy ngoài nguồn ảnh hưởng đậm nét của Ấn Độ ở Bàlamôn giáo thì việc kế thừa di sản phong phú của văn hóa Sa Huỳnh và nguồn văn hóa ảnh hưởng trong khu vực và bản địa Đông Nam Á đã góp phần làm nên nét riêng của văn hóa Chăm mà một số nhà nghiên cứu cho là phi Hoa, phi Ấn.

Quá trình hn dung văn hóa Vit - Chăm din ra dưới nhiu cách thc khác nhau; va bng con đường ngoi giao - thương mi mang tinh thn hòa bình, li va bng con đường cưỡng bc qua các cuc chiến tranh khc lit.

Du vết cng cư ca nhng nhóm người Chăm trên đất Vit không chỉ được lưu trong sử sách mà còn qua những du n văn hóa, phong tc, tp quán ca người Chăm còn lưu li mt s nơi trên đến nước ta, đặc bit là Hà Ni và min Trung. Nhiều tên làng được đặt theo cách gọi của người Chăm như ở các làng xã vùng ven sông Đáy thuc Hà Đông. Mt s làng ven H Tây - Hà Ni như Quán La S, Xuân To S vn có nhng du tích là làng Chăm xưa. V tôn giáo tín ngưỡng, có th thy ngoài nhng tôn giáo ln ca người Chăm là Bà La Môn th ba v thn Brahma, Visnu, Siva, Đạo Hi thì tín ngưỡng th Cá Ông ph biến t đèo Ngang tr vào chính là sn phm ca người Chăm mang đậm du n văn hóa ca người Chăm gc Hi Đảo. Mt trong nhng dòng Thin ni tiếng thi Lý là phái thin do thin sư Tho Đường, người Tàu, sang hc đạo ca mt v sư Chiêm Thành, to dng. Theo Nam Sử tập biên của Vũ Văn Lập, “Nước ta liên tiếp với Chiêm Thành, được nhiều giống thóc ở Chiêm mang sang cho nên lúa cấy mùa nắng, có nhiều giống mà gọi là lúa Chiêm, chứng tất cả có tới 35 thứ... nhưng đại khái có hai giống thông dụng là lúa chiêm hẩm và lúa chiêm dự”. Về phương diện nhân chủng, một số khá đông người Việt từ đèo Ngang trở vào đã pha máu người Chăm với đặc điểm: đầu dài, vai ngang, tóc quăn và tròn, trán thấp, môi dày, nước da bánh gan hoặc bánh ít lá gai. Trong âm nhc, nht là min Trung tr vào Nam, chu nhiu nh hưởng ca âm nhc Chiêm Thành.

Có lẽ yếu tố Chăm sớm và rõ nét nhất trong Phật giáo Việt Nam là ở TK XI. Cho dù có nhiu bt đồng v chính tr và có nhiu cuc xung đột gia Đại Vit và Champa, nhưng hai nn văn hóa vn có nhng sự giao lưu nghệ thuật sâu sc. Mặc dù bị Đại Việt thôn tính nhưng nhng ngh nhân Champa lại chính là nhng người thy ngh thut đầu tiên, giúp Đại Vit thc hin các công trình ngh thut Pht giáo đồ s, như chùa Dm, chùa Pht Tích. Và rt đặc bit, trong nhng công trình ngh thut thi Lý, nh hưởng ca tinh thn văn hóa nhà Đường và Champa đã kết hp vi nhau mt cách uyn chuyển, tr thành phong cách Lý thống nht, còn ảnh hưởng đến nhiều giai đoạn nghệ thuật sau này.

Yếu tố Chăm trong nghệ thuật điêu khắc ở chùa Thày

Là vùng phụ cận của Thăng Long, Hà Tây chính là một trong những nơi tiếp nhận khá rõ nét văn hóa Chăm. Trong đó, chùa Thày hiện còn lưu giữ một số tác phẩm điêu khắc mang nhiều giá trị sáng tạo minh chứng cụ thể cho sự giao lưu tiếp biến văn hóa, nghệ thuật này. Đó là hình tượng phỗng trong tư thế quỳ đăng đối trước tượng vua Lý Thần Tông và hình tượng tám chim thần Garuđa trên các góc bệ đá hoa sen hình hộp thời Trần. Hiện cả hai tác phẩm điêu khắc mang yếu tố Chăm này đều được bài trí trong không gian linh thiêng của tòa điện thánh thờ Từ Đạo Hạnh.

Tượng phỗng

Tượng phng ti tòa đin Thánh chùa Thy gm hai tượng được bày đối xng trước ban th vua Lý Thn Tông. Tượng được tc bng g, sơn cánh gián. Tượng cao 120cm, ngang vai rng 42 cm, ngang gi rng 45 cm, tượng được xem là có niên đại TK XVII. So vi mt s tượng phng các di tích đền miếu khác có cùng phong cách to hình mang tính hin thc như miếu Bo Hà (Hi Phòng), nhà th Đào Quang Nhiêu, nhà th Đỗ Thế Giai (Hà Ni), tượng phng chùa Thy đẹp hơn v to hình, khi nut nà thanh thoát hơn. Đặc bit là chân dung mang tính hin thc, sinh động và biu cm. Đứng hai bên tượng vua Lý Thn Tông, tượng phng nhn mnh tính tôn nghiêm, uy nghi, sc mnh quy phc ca mt v vua trong không gian tôn giáo.

Tượng có mt cách to hình trong tư thế đầu gi qu sát đất, hai tay chp trước ngc, đầu hơi cúi nghiêm cn, cung kính, nhn nhn. Cách to khi hình đơn gin, kết hp gia khi vng chc, cân đối chân và tay vi nhng khi tròn mông, bng kết hp nhng yếu t trang trí ca qun áo, trang phc to cho tượng s căng tràn trong trng thái cân bng, sinh động. Tượng đã din t rt rõ đặc đim ca người Chăm vi thân hình khe, mp, bng ph, tóc xoăn, lông mày lớn, mắt to lồi, mũi nở, môi dày. B tóc dài qun quanh đầu, thành hai hình xon c hai bên. Cùng vi kiu tóc l này là khuôn mt vuông vc vi cp mt nhìn thng, mũi nhn, cao, ming mm cười, hai tai to và có l tai. Tượng phng bên phi có khuôn mt tr, đầy đặn và tươi hơn. Tuy nhiên, hình dáng ca c hai tượng thng nht trong tư thế qu gi, hai tay chp trước ngc, hai bàn tay đan nhau to thành vòng tròn trong tư thế như đang cm mt vt gì. Tượng có trang phc khá độc đáo, áo mng, h tay và bng, váy dài, xiêm trùm rng, buông kín gót, tht lưng hai múi lượn v phía trước. Di khăn mm mi vt nh qua vai, buông xung hai bên sườn, xung chân ging vi cách quàng khăn ca người Chăm hin nay. Cùng với đó là cách đeo vòng tay, vòng cổ, yếm quanh cổ giống trong điêu khắc Chăm.

Cũng ging như tượng phng khác trong các di tích, s xut hin ca tượng thường gn vi vùng đất hoc s kin liên quan đến s giao lưu Chăm Vit. Ti chùa Thy, tượng phng đứng hai bên tượng vua Lý Thn Tông v vua thi Lý, gn vi giai đon giao thoa mnh m văn hóa Chăm Vit. Theo tác giả Trần Lâm Biền, tượng phỗng còn được gọi là tượng tù binh Chăm. Thời Lý, sau cuộc chiến tranh với người Chăm, triều đình thường đem tù binh phân phối cho các chùa và quan lại làm canh nô, hay nô lệ gia đình. Tượng phỗng được đưa vào thờ trong chùa Việt vào khoảng TK XVII và nở rộ vào TK XVIII do người ta vẫn theo tích lịch sử, tạc từng đôi đặt trong đền thờ hay mộ táng nhằm đề cao sự sang quý cho thần linh.

Một điều thú vị là mặc dù trong nghệ thuật Chăm không có thể loại tượng phỗng nhưng những yếu tố Chăm như đặc điểm nhân chủng, cách búi tóc, quàng khăn, đeo trang sức vòng, khuyên tai của người Chăm đã được khai thác vào tượng phỗng. Bên cạnh đó, yếu tố Việt cũng được đan cài trong tạo hình một cách hợp lý đó với cách thể hiện chiếc quần lá tọa có buộc dây.

Garuđa

Garuđa là vua các loài chim trong thần thoại Ấn Độ, tiêu biểu cho lòng ngưỡng vọng chân lý và sức mạnh tinh thần trên thượng giới. Cùng với sự phát triển của Ấn Độ giáo, Garuđa được du nhập kết hợp với thần thoại Visnu, là vật cưỡi của thần Visnu và trở thành môtíp trang trí trong các đền đài Ấn Độ giáo, lan tràn sang các nước Đông Nam Á. Trải qua nhiều chặng đường biến đổi với những ưu thế riêng về biểu trưng và hình dáng, hình tượng Garuđa dần được đưa vào nghệ thuật Phật giáo. Vì vậy, chim thần Garuđa trở thành hình tượng được trang trí khá phổ biến trong nhiều tháp, bệ đá Phật giáo thời Lý, Trần. Ngoại trừ đầu đao ở chùa Bối Khê bằng gỗ có chạm hình Garuđa, còn lại các hình tượng Garuđa khác đều được chạm khắc trên đá. Cấu trúc thần thoại của Garuđa là sự kết hợp các yếu tố chim với người. Yếu tố chim gồm mỏ quặp khỏe, mập, hai cánh to xòe rộng, móng chân, móng tay nhọn sắc. Yếu tố người gồm có tai to chảy dài, chân tay mập tròn, bụng phình ưỡn về phía trước. Đây là hình tượng điêu khắc thể hiện rõ ảnh hưởng của điêu khắc Chăm, nhưng ít yếu tố nhục cảm hơn. Yếu tố nửa người, nửa chim tạo cho tượng sự đan xen giữa hiện thực với huyền thoại, giữa sự nhân hậu với cái bí ẩn.

S xut hin ca Garuđa các góc ca nhng chiếc nhang án đá hoa sen hình hp ch nht là mt sáng to riêng ca ngh thut Pht giáo Vit. Theo thng kê, 7 chiếc bệ đá hoa sen thời Trần có niên đại cụ thể đều tập trung ở tả ngạn sông Đáy (từ huyện Hoài Đức qua Thanh Oai sang Ứng Hòa). Các bệ đá có phong cách thời Trần nằm trên một địa bàn khá rộng, từ Yên Bái đến Vĩnh Lộc - Thanh Hóa, nhưng tập trung nhiều nhất là lưu vực sông Đáy. Phải chăng, gốc của nó là từ sông Đáy rồi dần lan rộng ra và chỉ có các chùa làng mới xuất hiện bệ đá hoa sen? Đây là loi nhang án có niên đại t gia TK XIV, có b cc hình hp ch nht, thường được đặt v trí ngang và sau ct cái, gian gia tòa Thượng Đin. Tuy nhiên, nhang án đá chùa Thy là dng đặc bit, chưa thy xut hin nơi khác, có b cc hai tng đài sen và tám chim thn Garuđa chn các góc b.

Nhang án được làm bng cht liu đá xanh, tng trên gm ba phn (trên là đài sen, gia là thân nhang chia ô trang trí rng, Garuđa, phn dưới là đài sen). Đài sen gm hai tng cánh, căng tròn xòe ra. Phía dưới thân nhang thu li, chia thành các ô, bên trong có chm hình rng nhìn nghiêng đều đặn theo nhp hình sin nh dn. Đầu rng có mào ngn, cp sng chìm trong lp tóc bm. Bn góc là bn con chim thn Garuđa vi thân mình tròn ln, bng ph, khe khon trong tư thế qu, hai tay vi các ngón m ra đỡ cht tòa sen. Phn đế trang trí hoa dây xoáy tròn. Tng dưới rng hơn, ln lượt t trên xung gm: tng trang trí hoa dây, ri đến lp cánh sen, bn góc là bn chim thn Garuđa. Mt trước nhang án, tng dưới cũng chm rng; chính gia là mt đôi rng chu vào nhau, mi bên có ba con ni nhau chu vào hai rng gia. Tt c hình tượng rng đều un lượn trong na lá đề. Hai mt bên tng dưới cùng, chia các ô vuông, bên trong chm các bông hoa cách điu theo li nhìn t trên xung vi hai chiếc lá to xòe ra hai bên... đây, có s xut hin ca hai hình tượng rng và Garuđa trong cùng mt không gian, mc dù theo truyn thuyết n Độ, chúng vn có mi thù truyn kiếp. Qua đó, có th thy được ý nghĩa ca hình tượng này như mt s tôn vinh Pht pháp và sc mnh cm hóa ln lao ca đạo Pht. Mt khác, nó cũng có ý nghĩa “hai thế lc cách bit trên và dưới đã hòa hp...”.

So vi vi nhang án cùng thi mt s chùa như Đại Bi, Ngc Đình, ngh thut chm khc trên nhang án đá hoa sen chùa Thày đơn gin hơn. Tuy nhiên, đim độc đáo ca nhang án chùa Thày chính là kết cu kép, hai tng sen, tám chim thn trn bn góc, chưa tng thy nơi nào. Tuy đơn gin v trang trí, nhưng nhang án li có v đẹp ca ngh thut hình khi. Đó là t l hài hòa ca hai tng, độ thu thách ca các phn đài, thân đế, ca nét cong vi nét thng. Đặc bit là cách to hình các cánh sen tng trên múp tròn, căng phng, cho ta cm giác v s viên mãn, tròn đầy, s bng n nhn thc giáo lý Pht qua hình tượng hoa sen. Cùng vi đó, hình tượng Garuđa nâng đỡ tòa sen mang mt ý nghĩa ln lao v sc mnh và s cm hóa ca Pht pháp ti muôn loài.

Một sáng tạo trong hình tượng Garuđa trên bệ đá hoa sen này là ở nghệ thuật Ấn Độ, Garuđa thường trong tư thế đang đánh nhau với rắn thần hay là vật cưỡi của Visnu, nhưng ở đây, nó trở thành biểu tượng đề cao Phật pháp trong tư thế quỳ đỡ đài sen.

Giá tr ca yếu t Chăm trong điêu khc chùa Thày

Chùa Thầy được ví như một bảo tàng lưu giữ những bộ tượng Phật giáo có giá trị và hiếm hoi còn sót lại của điêu khắc Phật giáo Việt Nam, như bộ tượng Tam Thế thời Mạc, bộ tượng Di đà Tam Tôn sớm nhất, có niên đại TK XVII, mang nhiều yếu tố Mật Tông, tượng Từ Đạo Hạnh ở ba cõi Tiên, Phật, Thánh TK XIX và đặc biệt nhất là những tác phẩm điêu khắc mang yếu tố Chăm kể trên.

Sự xuất hiện của yếu tố Chăm đã làm cho điêu khắc Phật giáo thêm phong phú, sinh động trong hình thức thể hiện cũng như sự chuyển tải ý nghĩa Phật giáo. Bên cạnh những bức tượng có tính chất quy phạm, công thức của Phật giáo về tỷ lệ, kích thước dáng ngồi, thế ấn, rõ ràng thể loại tượng mang hình thức biểu cảm, hiện thực, tính dân gian trong tạo hình như cặp tượng phỗng đã giảm bớt sự khô cứng, tĩnh lặng của không gian chùa. Mặt khác, tư thế quỳ chầu cung kính của tượng phỗng cũng góp phần tôn thêm vẻ uy nghiêm, linh thiêng cho tượng Lý Thần Tông trong điện Thánh chùa Thày.

Hay chiếc bệ đá hoa sen hình hộp với chim thần Garuđa cũng là một đồ thờ đặc sắc trong không gian chùa. Ngoài yếu tố tâm linh với chức năng có thể là một đài thờ, và hiện tại là bệ đỡ cho các bộ tượng Tam thế và ở chùa Thầy là tượng Adiđà, rõ ràng đây là một hương án đẹp về tạo hình khối, về nghệ thuật chạm khắc và chất liệu. Trong không gian đèn nến lung linh, với các hệ thống tượng gỗ sơn son thếp vàng, bệ đá với các lớp cánh sen đồ sộ, được nâng đỡ bằng các chim thần Garuđa trên chất liệu đá xanh mịn tạo ấn tượng thị giác cao. Nó vừa có tính tương phản, lại vừa tôn vẻ đẹp vàng son của tượng Phật.

      Cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời xác định chính xác chức năng của tượng phỗng hay bệ đá hoa sen hình hộp trong kiến trúc Phật giáo, nhưng chúng đã trở thành một phần tất yếu, có giá trị độc đáo riêng trong sự giao lưu tiếp biến sáng tạo những yếu tố Chăm trong nghệ thuật Phật giáo Việt. Sự tồn tại của những hiện vật này như một minh chứng cho sự giao lưu văn hóa Chăm - Việt trên vùng đất ven Thăng Long khá đậm đặc. Những yếu tố Chăm trong nghệ thuật điêu khắc chùa Thày, không nhiều nhưng vô cùng đặc sắc, là minh chứng sinh động cho sự giao lưu tiếp biến văn hóa Chăm, một thành tố quan trọng trong văn hóa Việt.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 354, tháng 12-2013

Tác giả : Đặng Thị Phong Lan

;