Nằm bên cạnh Vườn Quốc gia Yok Đôn và dòng Sê-rê-pok ngàn đời chảy ngược về hướng Tây là nơi hội tụ của nhiều sắc tộc quần cư lập nên địa danh Bản Đôn. Triền núi phía Tây Bản Đôn là dãy Cư Minh hùng vĩ nối liền với cánh rừng đại ngàn kéo dài sang tận đất bạn Campuchia, ở đây có nhiều lâm đặc sản quý hiếm, nơi quần tụ sinh sống của những đàn voi. Bản Đôn một thời nổi tiếng với nghề săn bắt, thuần dưỡng voi; trở thành nơi trao đổi, buôn bán sầm uất có tiếng không chỉ ở Tây Nguyên. Cá, muối, hải sản từ dưới biển đưa lên; ngà voi, lâm đặc sản quý hiếm từ đây lan tỏa sang tận Lào, Thái Lan, Miến Điện…
Voi - biểu tượng của vùng đất Buôn Đôn huyền thoại - Nguồn: nhandan.vn
Theo Việt Nam sử lược, năm 1893, khi quân Pháp theo gót Yersin tiến lên vùng đất Đắk Lắk, ông Y Thu tù trưởng vùng Bản Đôn đã liên kết với ông M’Trang tù trưởng bộ tộc Bih vùng buôn Mblpơl và Ama Jhao tù trưởng bộ tộc Knul, tổ chức mặt trận ngăn chặn bước chân xâm lược của thực dân Pháp. Cuộc kháng chiến của các tù trưởng khiến thực dân Pháp chật vật, hao tổn. Những cuộc đụng độ giữa cung tên giáo mác cửa quân kháng chiến với súng đạn của Pháp đã xảy ra ác liệt tại rừng Bản Đôn. Võ lực của người Pháp không bình định được thổ dân Bản Đôn, chúng chuyển sang chiến thuật chiêu dụ từng Buôn. Với chiến thuật này, người Pháp đã đần dần đi sâu vào nội địa của quân kháng chiến vùng Bih và Knul, bắt được hai tù trưởng M’Trang và Ama Jhao… Ông Y Thu Knul nhận thấy tình hình Bản Đôn không thể chiến thắng súng đạn người Pháp, đã tự nguyện giao khu vực Bản Đôn. Ông vẫn tiếp tục làm tù trưởng và tiếp tục với nghề săn bắt voi rừng tập luyện thành voi nhà thuần thục bán cho người Lào, Thái Lan, Miến Điện. Truyền rằng, có lần ông Y Thu bắt được con voi trắng đem tặng vua Xiêm (Thái Lan), được vua Xiêm phong tặng ông Y Thu danh hiệu khunjunob (Vua săn voi).
Đất lành chim đậu, người từ khắp nơi dồn đến, trong đó người Lào có mặt từ rất sớm. Bản Đôn, theo cách gọi của người Lào nghĩa là Làng Đảo. Hai dòng sông Krông Knô (sông đực) và Krông Ana (sông cái) hợp lưu thành dòng Ea Krông (cách gọi của người Lào là Sê-rê-pok) chảy từ hướng Cư-Yang-sin về chớm rừng Yok Đôn thì tỏa ra 7 nhánh như những ngón tay ôm gọn lấy làng Đảo, rồi vấp váp đá chìm đá nổi chảy về hướng Campuchia nhập vào dòng Mê-Kông để quay trở lại Cửu Long giang đổ ra biển. Theo sử sách truyền lại, năm 1898, thực dân Pháp thiết lập tại Kon Tum một tòa Đại lý hành chính trực thuộc Quy Nhơn (về sau Tòa Đại lý đổi thành tòa Công sứ. Tỉnh Kon Tum lúc đó gồm các tỉnh Plei Ku và Đắk Lắk. Năm 1923, với ý đồ chia trị, Đại Lý Kon Tum tách ra thành lập tỉnh Đắk Lắk, Đại Lý Dak Lak được lập đã chọn đặt tại Bản Đôn do viên công sứ đầu tiên là Sabatie. Năm 1959, Buôn Ma Thuột được thiết lập thành thủ phủ của miền Thượng Cao Nguyên. Tòa đại biểu chính phủ và các nha sở được chuyển lên Buôn Ma Thuột.
Ngược dòng lịch sử, khi thực dân Pháp đặt chân đô hộ Việt Nam, người Pháp sáp nhập Đắk Lắk vào nước Ai Lao (Lào), đến ngày 22/11/1904 Đắk Lắk được trả lại cho Việt Nam. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk (cũ) có tới hơn bốn mươi tư thành phần dân tộc, riêng huyện Buôn Đôn (trước đây) có 17 dân tộc sinh sống. Nhằm phát huy và bảo tồn bản sắc văn hóa mang tính giáo dục truyền thống, ngày nay Lễ hội Buôn Đôn được tổ chức vào dịp tháng 3 hàng năm nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc sinh sống nơi đây trong đó có đặc trưng văn hóa Lào tại Bản Đôn đã thu hút khách gần xa.
Bản Đôn hấp dẫn du khách còn bởi có ngôi nhà gỗ trên trăm năm của vua săn voi Ama Công người kế vị ông Y Thu K’nul “vua săn voi”. Đất Bản Đôn còn lưu truyền hiệu quả của rượu Ama Công, còn có sự may mắn từ những trang sức được làm từ ngà voi, lông đuôi voi… Theo gia phả gia đình ông vua săn voi ghi lại thì ngôi nhà từ mái lợp đến chân hoàn toàn bằng gỗ khánh thành vào tháng 2 năm 1885, đến nay ngôi nhà độc đáo và hiếm hoi này đã trụ trên đất Bản Đôn 139 năm. Để hoàn thành được ngôi nhà, liên tục có 18 con voi vận chuyển gỗ, mười bốn thợ lành nghề được mời từ Lào qua thi công trong vòng hơn một năm.
Theo anh Y Liêm K’Tul - Phó Chủ tịch UBND phụ trách văn hóa xã hội xã Krông Na (anh là người mang trong mình, dòng máu hai dân tộc Lào –Việt, bố gốc Lào, mẹ M’Nông, thì người Lào chủ yếu sinh sống tại Buôn Trí (Khu vực Bản Đôn) gồm 107 hộ với 398 nhân khẩu. Thật may mắn, Hội Văn học Nghệ thuật Đắk Lắk tổ chức cho văn nghệ sĩ đi thâm nhập thực tế sáng tác tại huyện Buôn Đôn vào đúng dịp Tết Bun Pi May. Mọi người hiểu thêm một sắc thái văn hóa Lào trong nền văn hóa đa sắc tộc của một vùng đất có bề dày về lịch sử, văn hóa. Bản Đôn vào thời điểm đón Tết Bun Pi May, dọc hai bên đường hàng quán nào cũng bày đặc sản của người Lào, từ vòng, nhẫn tạo bằng ngà voi, váy áo dệt hoa văn Lào, dầu xoa Lào… đến đồ ẩm thực, những đĩa thức ăn chế biến theo kiểu Lào, những lon bia mang nhãn hiệu Lào… Phía sau những gian hàng là các cô, các em gái mặc váy áo Lào đứng mời chào. Mấy người chúng tôi tạt vào một cửa hàng bán ẩm thực kêu lon bia Lào uống giải khát bởi cái nắng nóng ảnh hưởng khí hậu vùng biên giới, cũng để thỏa trí tò mò về loại bia Lào vỏ lon mầu vàng có chữ Lào hấp dẫn.
Anh Bun Mi chủ nhà mời chúng tôi vào ngồi ghế trong nhà thân tình, anh lấy sợi chỉ buộc vào cổ tay mỗi người. Chúng tôi hiểu thêm ý nghĩa của phong tục Bun Pi May. Nghĩa là Tết năm mới của người Lào, hôm nay ngày 14 /4 giống như chuẩn bị đón giao thừa cho ngày mai 15/ 4 bước sang năm mới. Sáng đầu năm mới, lãnh đạo xã lên khai mạc Tết gọi là Lễ Tắc bạc, sau lời khai mạc đến lễ dâng quà cho sư, quà gồm bánh kẹo, nước, trái cây đặt lên cái bè kết bằng bẹ cây chuối để cho sư cúng. Cúng xong buộc chỉ cổ tay cho mọi người cầu mong năm mới mạnh khỏe. Xong đến nghi lễ tắm Phật, người ta đặt tượng Phật đứng vào cái chậu tắm nước hoa thơm cùng với nghệ, nước tắm Phật dưới chậu đem về tắm cho trẻ, vẩy tắm cho cột nhà cầu mong sức khỏe và trừ ma tà. Sau lễ tắm phật, mọi người té nước vào nhau, người được té nước càng nhiều vào người càng may mắn. Vì vậy, mọi người gọi tắt Tết Bun Pi May là “Tết té nước”.
Trong Lễ hội Buôn Đôn tổ chức hằng năm có lẽ vui nhộn nhất là phần hội, ngoài các đội nghệ nhân từ các buôn làng đem văn hóa đặc trưng của dân tộc mình đến khoe tài, lực lượng thanh niên mỗi xã, cơ quan trong huyện tổ chức thi Trại đẹp, tham gia các nội dung văn hóa, thể thao của Lễ hội. Trong một dịp dự lễ hội Buôn Đôn, anh Vông Nhi, Bí thư Huyện ủy Buôn Đôn (trước đây), cho rằng muốn gìn giữ, bảo lưu vốn văn hóa tốt đẹp của cha ông, hơn ai hết là giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ - lực lượng thanh niên. Thường thì Lễ hội Buôn Đôn diễn ra trong ba ngày cuối tháng Ba, tuỳ thuộc thời gian phù hợp hằng năm. Đêm khai mạc sẽ diễn ra Lễ đâm trâu, cuộc trình diễn các làn điệu dân ca truyền thống, thi tiếng hát, thi trang phục… Kết thúc đêm khai hội là vòng xoang xoay quanh ngọn lửa bập bùng cùng nhịp chiêng thôi thúc. Bước chân nối bước chân, tay nắm tay, mọi người hoà vào nhau gắn kết tưởng như cái khí tiết âm dương của đất trời đang giao hòa cho một mùa sinh sôi nảy nở. Ngày hôm sau diễn ra phần hội, các cuộc đua tài săn bắt voi, đua voi vượt sông, voi chạy nhanh, voi đá bóng, voi kéo gỗ… và văn nghệ, thể thao không những của dân tộc bản địa mà còn có sự tham gia của các dân tộc anh em khác góp vào làm cho ngày hội văn hóa đa bản sắc thu hút đông đảo khách thập phương. Bản Đôn trở thành thương hiệu nổi tiếng của Du lịch Đắk Lắk, một nơi không thể thiếu khi đến Đắk Lắk, mời bạn ghé qua.
NGUYỄN LIÊN
Nguồn: Tạp chí VHNT số 616, tháng 8-2025