Từ bao đời nay, lễ hội truyền thống có vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa của đất nước và con người Việt Nam. Trải qua những thăng trầm, biến thiên của lịch sử, lễ hội truyền thống vẫn luôn là điểm gắn kết cộng đồng, nơi tỏa sáng và trao truyền những giá trị văn hóa cùng những khát vọng tâm linh cao đẹp của con người, nhằm hướng tới các giá trị chân - thiện - mỹ. Bảo tồn giá trị của lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện nay đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước, các ngành liên quan cũng như cả cộng đồng. Nội dung bài viết nghiên cứu về lễ hội truyền thống xưa, thực trạng hoạt động lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện nay và đề xuất một số nội dung nhằm bảo tồn giá trị lễ hội truyền thống.
Lễ hội Đền Hùng Phú Thọ - một trong những lễ hội quan trọng bậc nhất của đất nước
Lễ hội dân gian truyền thống ngày xưa - nơi trao truyền, tỏa sáng những giá trị văn hóa tốt đẹp
Xuất phát từ một nước có nền văn minh nông nghiệp gắn với nghề trồng lúa nước, người Việt dịch chuyển từ vùng núi cao xuống đồng bằng, tiếp tục hành trình mở cõi tiến vào phương Nam theo những triền sông lớn. Định cư ở đâu, người Việt cũng mang theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và thực hành tín ngưỡng ở nơi đó, chính vì vậy, nước ta có hệ thống lễ hội khá phong phú, trong đó loại hình lễ hội dân gian truyền thống chiếm số lượng lớn. Theo sách Thống kê lễ hội Việt Nam do Bộ VHTTDL công bố: cả nước có 7.966 lễ hội, trong đó có 7.039 lễ hội dân gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ hội tôn giáo (chiếm 6,28%), 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn lại là lễ hội khác (chiếm 0,5%). Địa phương có nhiều lễ hội nhất là thành phố Hà Nội với 1.095 lễ hội, nơi ít nhất là tỉnh Lai Châu với 17 lễ hội (1). Trong các loại hình lễ hội, lễ hội dân gian truyền thống chiếm tỷ lệ lớn, luôn được bảo tồn và phát triển trong đời sống văn hóa cộng đồng.
Lễ hội dân gian truyền thống là một loại hình sinh hoạt văn hóa - phong tục tổng hợp, phức hợp của một cộng đồng người hướng vào việc tưởng niệm, tôn vinh người có công với nước, với cộng đồng; thể hiện phong tục thờ cúng tổ tiên, thần thánh, mang biểu tượng có tính truyền thống và tổ chức các hoạt động tín ngưỡng dân gian tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội. Các giá trị cơ bản của lễ hội là: gắn kết cộng đồng, hướng về nguồn cội, cân bằng đời sống tâm linh, sáng tạo và hưởng thụ giá trị văn hóa… Các giá trị văn hóa này liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, cội nguồn, nếp sống, nếp nghĩ, lối sống, mối quan hệ tình làng, nghĩa xóm, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn liền với truyền thống lịch sử của cha ông, hướng con người trở về với cội nguồn của dân tộc, biết tưởng nhớ, tri ân công đức các bậc tiền bối có công với dân, với nước và cầu mong những điều thánh thiện, tốt lành trong cuộc sống đời thường.
Lễ hội truyền thống trước đây chủ yếu được mở theo mùa vụ của chu kỳ sản xuất nông nghiệp với những hội lề, hội lệ nhất định. Thông thường, hội làng được mở hằng năm nhưng cũng có hội vài ba năm, năm mười năm mới mở một lần, thậm chí có hội như hội Dô (Hà Nội) 36 năm mới mở một lần. Thời gian của hội cũng rất linh hoạt; có hội chỉ mở một ngày, có hội kéo dài vài ba ngày; có hội kéo dài tới mươi mười lăm ngày, đặc biệt có hội diễn ra suốt cả ba tháng xuân như: hội chùa Hương(2). Thông thường, lễ hội truyền thống diễn ra vào mùa Xuân và số ít vào mùa Thu là hai mùa đẹp nhất trong năm, đây cũng là thời điểm nhà nông có thời gian nhàn rồi sau khi thu hái mùa màng cấy, gặt. Những năm được mùa “phong đăng hỏa cốc”, hội lệ làng xã diễn ra thường niên, nếu vào những năm mùa màng thất bát, thiên tai địch họa thì làng, xã sẽ không khai hội (mở hội).
Về quy mô và không gian lễ hội: lễ hội truyền thống ngày xưa chủ yếu diễn ra trong địa giới của làng, xã “trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”, du khách tham dự lễ hội là người trong cộng đồng làng, xã. Hầu hết các lễ hội đều do cộng đồng làng xã tự đứng ra tổ chức, tái hiện các sinh hoạt văn hóa cộng đồng và thực hành tín ngưỡng tâm linh. Chính vì vậy, mọi sinh hoạt văn hóa trong lễ hội đều thấm đượm tinh thần dân chủ và có ý nghĩa nhân văn sâu sắc khi tất cả mọi người đều chan hòa trong không khí linh thiêng, hứng khởi, mọi sự cách biệt về khoảng cách, địa vị xã hội giữa các cá nhân dường như được xóa nhòa, mọi người đều cùng thăng hoa, sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa. Trong thời điểm này, dường như mỗi người tham gia lễ hội đang có được tâm thế bình đẳng cao nhất để thể hiện mình trước cộng đồng, xã hội.
Không gian lễ của lễ được con người trân trọng và tôn kính, nghi thức tế lễ diễn ra trang nghiêm thành kính cùng với những đám rước linh thiêng độc đáo (Lễ hội đền Hùng xưa có tới 40 cỗ kiệu của các làng xung quanh đền Hùng rước kiệu về đền Hùng chầu Tổ). Người tham gia lễ hội đã coi đây là không gian thiêng của thánh nên họ đều rất cẩn trọng trong thực hành tín ngưỡng tâm linh. Việc biện lễ, dâng lễ được thực hành với một tâm thức thành kính, khi đặt lễ xong họ đứng xa vái lại, tuyệt đối không va chạm, sờ mó vào đồ khí tế, hiện vật trong không gian thiêng, bởi họ quan niệm nếu đụng chạm vào đồ thiêng, hoặc làm điều bất kính sẽ bị thánh thần trừng phạt. Số tiền hành lễ được định lượng bằng số tiền rất nhỏ “giọt dầu”, người hành lễ đặt tiền “giọt dầu” cung kính trên ban thờ, tiền “giọt dầu” khi thu được, luôn được nhà đền sử dụng minh bạch, không khuất tất để thêm phần đèn nhang sóc vọng trông coi đền chùa, gìn giữ di tích… Ý sở nguyện cầu của người hành lễ cũng thánh thiện, thanh tao không trần tục: họ cầu mưa thuận gió hòa, con người khỏe mạnh an khang, vạn vật sinh sôi, cây cối tốt tươi, mùa màng thịnh vượng…
Không gian hội tưng bừng náo nhiệt bởi các trò diễn, diễn xướng dân gian vốn là linh hồn của lễ hội. Tùy theo tính chất và điều kiện của từng làng, từng xã mà không gian hội mỗi nơi thường tổ chức những trò chơi dân gian khác nhau, ngày trước thường gọi là trò “bách hý” khôi hài bao gồm các hoạt động như: hát Ca trù, hát Chèo, múa Bồng, múa Lân, múa Rối nước, đánh tổ tôm, thi cờ người, cờ bỏi, đấu vật, chọi gà, đốt cây bông, thi bơi chải, thổi cơm thi, làm cỗ thi… Đã là hội thì nhất thiết phải có trò “bách hý”, bởi chính cái phần du hý này mới là phần có sức lôi cuốn, mời gọi công chúng để “tả tơi xem hội” (3), vui như xem hội, vui như đi hội…Không khí này đã đưa con người thăng hoa đến tột đỉnh để họ lấy lại thăng bằng cả về mặt tâm lý, tinh thần và thể chất, khiến con người sống thoải mái hơn, đời sống tinh thần vui tươi, lạc quan, phong phú hơn.
Người dự hội tâm thế thoải mái, lịch lãm và vui vẻ, ăn mặc đẹp (mặc đẹp như đi hội, quần là áo lượt như đi hội…), nói năng cư xử văn hóa. Cô gái đi dự hội chùa Hương (trong bài hát Em đi chùa Hương của tác giả Trung Đức phổ thơ Nguyễn Nhược Pháp) đã dậy từ sớm để cùng thầy mẹ chải tóc, “vấn đầu, soi gương”, rồi mặc “áo the, quần lĩnh, chân đi đôi dép cao cao”, từ đầu đến chân cô gái đều chỉn chu, chỉnh tề để đến với hội chủa Hương. Còn cô gái đi lễ chùa (trong bài hát Chân quê của tác giả Trung Đức phổ thơ Nguyễn Bính) cũng mặc “cái áo tứ thân, cái quần nái đen”, chít “cái khăn mỏ quạ” và đeo “cái yếm lụa sồi”, thắt “dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân”… để đi lễ chùa. Trong lễ hội đền Hùng xưa, mặc dù người dự hội từ người lớn đến trẻ em còn đi chân đất, nhưng trên người đều mặc áo tứ thân, đầu đội khăn xếp chỉnh tề. Lời ăn tiếng nói của người dự hội cũng ý nhị như cô gái đi hội chùa Hương “Thẹn thùng em khẽ nói: Nam mô A di đà…”.
Xét về quy mô tổ chức, thời gian, nội dung lễ hội (phần lễ và phần hội), trang phục của người dự hội, ý thức thực hành tín ngưỡng tâm linh của du khách… đều toát lên những vẻ đẹp văn hóa thanh tao của lễ hội truyền thống ngày xưa, đáng để cho lễ hội truyền thống ngày nay cần bảo tồn và phát huy. Lễ hội truyền thống xưa được tổ chức với nghi thức trang nghiêm, linh thiêng và thành kính. Hoạt động phần hội phong phú, hấp dẫn với những sinh hoạt văn hóa dân gian phong phú, lành mạnh, hấp dẫn, phù hợp với phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc, thể hiện khả năng sáng tạo và tái hiện các sinh hoạt văn hóa, hưởng thụ các giá trị văn hóa tâm linh của cộng đồng. Sinh hoạt lễ hội truyền thống đã góp phần giáo dục đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong cộng đồng thông qua việc tìm hiểu về nguồn gốc của lễ hội, di tích và các nhân vật được thờ phụng, tôn vinh của mỗi vùng quê, cộng đồng làng xã.
Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện nay
Lễ hội truyền thống được hình thành và tiếp tục phát triển ở hầu hết các địa phương trong cả nước, mật độ lớn tập trung ở các tỉnh thuộc khu vực châu thổ Bắc Bộ và đồng bằng Nam Bộ, trong đó một số lễ hội dân gian truyền thống có quy mô lớn được tổ chức thường xuyên như lễ hội Đền Hùng (Phú Thọ), lễ hội Chùa Hương (Hà Nội), Lễ hội Phủ Dày (Nam Định), lễ hội Yên Tử (Quảng Ninh), lễ hội Xuân núi Bà Đen (Tây Ninh), Lễ hội Vía Bà chúa Xứ Núi Sam (An Giang), lễ hội Quốc Mẫu Tây Thiên (Vĩnh Phúc)… Nhiều lễ hội dân gian từng bị thất truyền sau nhiều năm không tổ chức, nay được khôi phục lại đang được tổ chức định kỳ ổn định, có sức hấp dẫn du khách như lễ hội Lam Kinh (Thanh Hóa), lễ hội Chọi trâu (Vĩnh Phúc), lễ hội Tịch điền (Hà Nam), lễ hội Về nguồn (Gia Lai). Khu vực miền Trung có: lễ hội Quan Thế Âm - Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng), lễ hội Đập Đồng Cam (Phú Yên), Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa (Quảng Ngãi), lễ Đập trống của người Ma Coong (Quảng Bình)… Khu vực miền Nam có lễ hội Nghinh Ông (Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa-Vũng Tàu)… Đặc biệt, nhiều lễ hội dân gian của đồng bào các dân tộc thiểu số được quan tâm khôi phục và tổ chức như lễ hội Lồng Tồng (dân tộc Tày, Nùng) thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn; lễ hội Gầu Tào dân tộc Mông (Hòa Bình), lễ hội Hoa ban dân tộc Thái (Sơn La), lễ hội ăn trâu, mừng lúa mới, cúng Bến nước… của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên; lễ hội Chol Thnăm Thmây của đồng bào Khơ Me thuộc các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, Cà Mau, Kiên Giang, An Giang… Các lễ hội: Ngọc Hồi - Đống Đa, lễ hội đền Hai Bà Trưng (Hà Nội), Lễ hội Lim, lễ hội Chùa Bái Đính (Ninh Bình), lễ hội đền Huyền Trân, lễ hội làng Sình (Thừa Thiên Huế), lễ hội vùng cao Bắc Hà, Mường Khương (Lào Cai)… được tổ chức với lượng khách đều tăng, năm sau cao hơn năm trước.
Hội Gióng là Di sản Văn hóa phi vật thể của nhân loại được UNESCO ghi danh
Công tác quản lý lễ hội được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành và sự hưởng ứng mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân nên có nhiều chuyển biến tích cực. Chính quyền địa phương các cấp đã thực hiện có hiệu quả công tác quản lý nhà nước và hướng dẫn nghiệp vụ trong việc khai thác, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của lễ hội theo quy định của pháp luật.
Lễ hội hoạt động theo đúng quy định của Nhà nước và phát huy vai trò chủ thể, năng lực sáng tạo của các tầng lớp nhân dân. Nhiều lễ hội được phục dựng, bảo tồn, phát huy được giá trị văn hóa truyền thống, khơi dậy tinh thần dân tộc, “uống nước nhớ nguồn”... qua đó giáo dục truyền thống lịch sử văn hóa, lịch sử cách mạng trong đấu tranh dựng nước và giữ nước của các bậc tiền nhân. Một số lễ hội lớn và nhiều lễ hội quy mô làng xã được nâng tầm hơn so với trước đây, góp phần chấn hưng văn hóa dân tộc, phù hợp với thuần phong mỹ tục và điều kiện kinh tế của mỗi địa phương. Nhiều lễ hội được tổ chức với quy mô ngày càng lớn và có nhiều nét mới trong tổ chức cũng như trong các hoạt động lễ hội, hình thức tổ chức với nhiều nội dung và chương trình hoạt động do các địa phương dựa vào nội lực là chính, nhiều lễ hội đã chinh phục được du khách, tôn vinh di sản, nâng cao uy tín của thương hiệu du lịch và sức hấp dẫn của địa phương, một số hình thức văn hóa mới, phong tục tập quán mới đưa vào lễ hội được cộng đồng chấp nhận.
Trình độ tổ chức và quản lý lễ hội tại một số địa phương đang từng bước được nâng lên. Cơ sở vật chất tại các lễ hội ngày càng được đầu tư nâng cấp, quy hoạch tổ chức dịch vụ có nhiều tiến bộ so với trước đây. Thông qua tổ chức lễ hội truyền thống đã góp phần tu bổ, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa, quảng bá danh lam thắng cảnh của địa phương, các làng nghề, nghề truyền thống được khôi phục. Các di tích gắn với lễ hội đều được tu bổ khang trang hơn trước, cơ sở hạ tầng, cơ sở lưu trú dịch vụ đã được nâng cấp, cải tạo.
Lễ hội đã huy động được nguồn lực xã hội hóa rộng rãi từ nhân dân, phần lớn kinh phí tổ chức lễ hội truyền thống đều do nhân dân và du khách thập phương tự nguyện đóng góp. Nguồn kinh phí thu được qua tài trợ, cung tiến ngày càng tăng, nguồn thu qua công đức, lệ phí, tài trợ, dịch vụ phần lớn đã được sử dụng cho tôn tạo di tích, tổ chức lễ hội và phúc lợi công cộng. Tổ chức tốt có hiệu quả các hoạt động lễ hội còn có tác dụng khai thác tiềm năng du lịch, một nguồn thu rất lớn bổ sung vào nguồn thu ngân sách cho các địa phương và của quốc gia, góp phần quảng bá hình ảnh và đất nước con người Việt Nam, tôn vinh các giá trị văn hoá, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong văn hóa du lịch, tạo dấu ấn với du khách trong nước và quốc tế.
Lễ hội còn giúp chúng ta mở cửa, giao lưu với các nền văn hóa trong khu vực và thế giới nhưng không đánh mất bản sắc dân tộc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Lễ hội góp phần tôn vinh di sản thế giới - một số di sản của Việt Nam đã được ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại như: Hội Gióng ở Đền Phù Đổng và Đền Sóc ở Hà Nội (năm 2010), Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ (năm 2013)… Nhiều lễ hội được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Người dân đã nhận thức được ý nghĩa vai trò của lễ hội trong đời sống văn hóa tinh thần, từ đó có ý thức bảo tồn, góp phần chấn hưng văn hóa dân tộc thông qua việc giáo dục, phát huy truyền thống tốt đẹp từ gia đình, dòng họ, quê hương và đất nước.
Một số biểu hiện sự biến đổi bất cập diễn ra trong lễ hội truyền thống hiện nay
Xu hướng mở rộng không gian lễ hội: Nếu như trước đây, không gian lễ hội nằm trong giới hạn khuôn viên lễ hội của làng, xã thì hiện nay, không gian tổ chức lễ hội ở hầu hết các địa phương đều mở rộng, vượt thoát ra khỏi không gian làng xã để quảng bá, thu hút du khách nhằm kích cầu tăng trưởng kinh tế du lịch. Yếu tố này dẫn đến sự quá tải không gian di tích, gây xâm hại tổn thương giá trị của di tích, xâm lấn không gian thiêng hành lễ.
Tính thiêng của lễ hội có phần suy giảm do tâm thế một bộ phận du khách mang tính thực dụng bị chi phối thông qua những hành vi trần tục hóa. Trong lễ hội dân gian truyền thống xưa, du khách đều tôn kính không gian thiêng (không gian hành lễ) cầu mong những điều ước giản dị. Ngày nay họ cầu tài cầu lộc, cầu buôn to, bán lớn nên sẵn sàng dâng đồ lễ tốn kém, đốt nhiều hương nến, vàng mã gây ô nhiễm môi trường, tiềm ẩn nguy cơ cháy nổ cao.
Còn tư tưởng thương mại hóa trong hoạt động lễ hội: có những nơi coi lễ hội là nguồn thu lớn nên khai thác triệt để khuôn viên di tích (không gian lễ hội) để tổ chức hoạt động kinh doanh, thu phí dịch vụ các hoạt động dịch vụ cao. Đã xuất hiện các dịch vụ khấn thuê trọn gói, thuê mướn đồ dâng lễ, dịch vụ sắp lễ, đội lễ thuê, khấn thuê trọn gói, hóa tiền vàng mã, dịch vụ giải thẻ, khấn vái cầu cúng giải hạn, bán bùa cầu an, bùa trừ tà… trong lễ hội. Một số cơ sở tôn giáo lợi dụng tổ chức lễ hội đặt nhiều hòm công đức làm vẩn đục môi trường lễ hội trong lành, mất đi vẻ đẹp tín ngưỡng tâm linh thanh tao của các công trình văn hóa tín ngưỡng.
Việc quản lý thu chi tiền công đức tại di tích, lễ hội còn thiếu sự thống nhất, có nơi chưa công khai, minh bạch gây mất niềm tin đối với nhân dân. Chính nhờ có công đức, nhiều công trình di tích, khuôn viên lễ hội được cải tạo, tu bổ khang trang hơn nhưng vẫn còn hiện tượng cá biệt một số cơ sở tôn giáo lợi dụng tổ chức lễ hội đặt nhiều hòm công đức làm ảnh hưởng trực tiếp đến những giá trị tốt đẹp của di tích và tổ chức lễ hội. Việc quản lý, thu chi và sử dụng tiền công đức thiếu minh bạch ở một số nơi dẫn đến mất lòng tin, để lại dư luận không tốt trong xã hội.
Lợi dụng hoạt động lễ hội để trục lợi, tuyên truyền tư tưởng duy tâm huyền bí. Đã có hiện tượng một số sư trụ trì lợi dụng hoạt động lễ hội, tín ngưỡng tâm linh, tôn giáo để thực hiện các hành vi mê tín dị đoan nhằm trục lợi niềm tin, tuyên truyền những tư tưởng bi quan, thần bí, tà đạo đi ngược lại giáo lý của nhà Phật, vi phạm pháp luật.
Bảo tồn giá trị lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện nay
Cha ông ta, qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã để lại cho các thế hệ chúng ta hôm nay và mai sau những di sản văn hóa vô cùng quý giá, trong đó có hệ thống lễ hội truyền thống đặc sắc. Loại hình di sản văn hóa phi vật thể quý báu này đã tồn tại, đồng hành, tạo nên ký ức văn hóa của dân tộc. Vượt qua thời gian kho tàng lễ hội truyền thống đã lan tỏa và có sức sống lâu bền trong đời sống nhân dân đương đại, cần được bảo tồn và phát huy, phát triển để các giá trị văn hóa của lễ hội trở thành nguồn lực to lớn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Thực tiễn hoạt động của loại hình lễ hội truyền thống trên phạm vi cả nước đang đặt ra yêu cầu về nhiệm vụ quản lý, tổ chức có hiệu quả, đồng thời điều chỉnh những bất cập đang nảy sinh. Để phát huy những giá trị nhân văn, nhân bản, hạn chế những bất cập trong hoạt động lễ hội, cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó có những nhiệm vụ cơ bản như sau:
Về phương thức lãnh đạo, chỉ đạo: Thực hiện nghiêm túc nội dung Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 21/12/2012 của Ban Bí thư về việc đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 5/2/2015 của Ban Bí thư về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý và tổ chức lễ hội; Chỉ thị số 06-CT/TTg ngày 20/2/2017 của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh công tác quản lý, tổ chức lễ hội. Các nội dung trọng tâm của các Chỉ thị là:
Tiếp tục cuộc vận động sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội theo hướng lành mạnh, tiết kiệm, tránh xa hoa, lãng phí, phiền nhiễu, bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan; chống lợi dụng việc cưới, việc tang để vụ lợi; chống thương mại hóa lễ hội. Cán bộ lãnh đạo, quản lý, đảng viên các cơ quan trung ương phải gương mẫu chấp hành các quy định của trung ương và địa phương về việc cưới, việc tang, lễ hội; coi đây là tiêu chuẩn đánh giá cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên. Phê bình và xử lý nghiêm đối với cán bộ, đảng viên vi phạm.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đối với công tác quản lý và tổ chức lễ hội; đảm bảo việc quản lý và tổ chức lễ hội của từng ngành, từng địa phương, cơ sở theo đúng quy định của pháp luật; thiết thực, hiệu quả; phù hợp với thuần phong mỹ tục, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, có ý nghĩa giáo dục cao; đáp ứng nhu cầu văn hóa, tinh thần lành mạnh của nhân dân.
Về việc quản lý và tổ chức lễ hội: UBND tỉnh cần có những cơ chế chính sách đầu tư thích đáng cho việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa lễ hội, đầu tư, tu bổ, nâng cấp cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lượng phục vụ lưu trú cho du khách và các loại hình dịch vụ phục vụ để lễ hội trở thành điểm sinh hoạt văn hóa cộng đồng, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo, góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế du lịch trong khai thác giá trị văn hóa.
Rà soát kế hoạch tổ chức lễ hội, điều chỉnh tần suất, quy mô phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương. Giảm tần xuất, thời gian tổ chức, nhất là những lễ hội có quy mô lớn. Chủ động xây dựng kế hoạch, phương án, điều kiện để lễ hội diễn ra đảm bảo an toàn về trật tự xã hội, phòng chống cháy, nổ, đảm bảo an toàn giao thông, an toàn sông nước, vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, đấu tranh phòng, chống các tệ nạn xã hội.
Hạn chế sử dụng ngân sách nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các nguồn lực trong việc tổ chức lễ hội. Tổ chức lễ hội, các sinh hoạt tín ngưỡng và các hoạt động vui chơi giải trí trong lễ hội hợp lý, lành mạnh; ngăn chặn và khắc phục tình trạng lợi dụng di tích, nơi thờ tự, lễ hội nhằm trục lợi, tuyên truyền mê tín dị đoan và các hoạt động trái pháp luật. Tăng cường kiểm tra việc tổ chức hoạt động lễ hội ở các địa phương; xử lý nghiêm các địa phương có sai phạm trong tổ chức lễ hội.
Về thực hành hoạt động trong lễ hội: Việc tổ chức lễ hội phải nhằm mục đích giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, tôn vinh công lao các bậc tiền nhân, nhân vật lịch sử, những người có nhiều đóng góp trong quá trình hình thành, phát triển đất nước; tuyên truyền giá trị về lịch sử, văn hóa, kiến trúc của di tích, truyền thống tốt đẹp của lễ hội.
Nghi lễ, nghi thức trong lễ hội phải được tổ chức trang nghiêm, bảo đảm nghi lễ truyền thống trang trọng, thiết thực, hiệu quả; phù hợp với quy mô, nội dung của lễ hội; tổ chức lễ hội truyền thống theo đúng bản chất, ý nghĩa lịch sử văn hóa; giảm tần suất, thời gian tổ chức lễ hội văn hóa.
Chú trọng thực hiện các biện pháp bảo vệ di tích, danh lam thắng cảnh; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, phòng chống cháy nổ, an toàn giao thông và vệ sinh môi trường. Không lợi dụng việc tổ chức lễ hội nhằm mục đích trục lợi cá nhân, phục vụ lợi ích nhóm; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trước, trong và sau khi tổ chức lễ hội; kịp thời ngăn chặn, xử lý nghiêm các vi phạm trong hoạt động lễ hội, đặc biệt là các hành vi lợi dụng di tích, lễ hội, tín ngưỡng để trục lợi; hoạt động mê tín dị đoan, cờ bạc, tổ chức lễ hội tràn lan gây tốn kém, lãng phí.
Về công tác tuyên truyền, quảng bá lễ hội: Tuyên truyền, vận động nâng cao ý thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, nhân dân và du khách nghiêm túc thực hiện các quy định của Nhà nước về tổ chức lễ hội; hiểu rõ về nguồn gốc của lễ hội, giá trị của di tích và công trạng của các nhân vật được thờ phụng, tôn vinh; về các giá trị, ý nghĩa đích thực của tín ngưỡng và nghi lễ truyền thống; hạn chế đốt vàng mã, bảo đảm an toàn, tiết kiệm bảo vệ môi trường.
Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của lễ hội; giáo dục, định hướng con người hình thành các hành vi, thái độ, nhận thức cao đẹp; biểu dương các tổ chức, cá nhân gương mẫu thực hiện tốt các quy định về tổ chức lễ hội; kịp thời phê phán, lên án những hành vi vi phạm pháp luật.
Xây dựng và thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội: hoàn thiện các thể chế luật pháp, quy định, đưa ra những chế tài phù hợp, để xử lý các vi phạm, nhằm điều chỉnh hành vi của các tổ chức, cá nhân đối với việc bảo tồn, tôn vinh và phát huy lễ hội cổ truyền. Tuyên truyền, vận động thực hiện nếp sống văn minh, xây dựng môi trường văn hóa lễ hội lành mạnh. Triệt để thực hiện nếp sống văn minh trong sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng và lễ hội.
Lễ hội truyền thống là sản phẩm văn hóa kết tinh lâu đời trong tiến trình lịch sử của cộng đồng. Việc tổ chức tốt lễ hội truyền thống đã góp phần làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân; củng cố gắn kết tình đoàn kết cộng đồng, góp phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh ở các địa phương trong cả nước. Trong điều kiện hiện nay kinh tế phát triển, nhu cầu tham gia sinh hoạt văn hóa lễ hội của nhân dân ngày càng cao, rất cần tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động bảo tồn và khai thác lễ hội, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong đầu tư, tu bổ, tôn tạo di tích và tổ chức lễ hội trên cơ sở những biện pháp quản lý phù hợp, xây dựng và thực hiện những tiêu chí cụ thể để không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm của cộng đồng trong việc giữ gìn, phát huy giá trị của lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện nay, góp phần vào sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc của dân tộc.
_____________________
1. Bộ Văn hóa (1993), Lễ hội truyền thống, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội.
2. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia (2013), Lễ hội - Nhận thức giá trị và giải pháp quản lý, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội.
3. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Cục Văn hóa cơ sở) (2008), Thống kê lễ hội Việt Nam, tập 1, Tập 2, Hà Nội.
4. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Cục Văn hóa cơ sở), (2016), Văn hóa ứng xử trong lễ hội, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội.
TS TRẦN THỊ TUYẾT MAI
Nguồn: Tạp chí VHNT số 597, tháng 2-2025