Dạo đó, mùa thu đang đi đến những ngày cuối cùng. Gió se lạnh. Tiết trời hanh hao, gợi chút gì xa vắng. Bên khung cửa sổ, đạo diễn Đặng Nhật Minh quay sang nói với tôi: “Tôi đến với điện ảnh một cách tình cờ như một sự run rủi của số phận. Hồi nhỏ tôi không yêu môn nghệ thuật này và không có hiểu biết gì. Tất cả những gì tôi có được là do tự học, tự mày mò, tìm kiếm một con đường riêng.” Gương mặt ông đằm lặng đang hồi nhớ về một hành trình thăm thẳm của cuộc đời…

Tôi thảng thốt nhìn ông. Dấu thời gian đã in hằn lên một cuộc đời từng trải của một trong những nghệ sĩ đại tài. Tóc ông đã bạc xóa, làn da đã nhăn nheo, đôi mắt hướng nội thỉnh thoảng lại bừng lóe một ánh sáng khó tả, giọng ông sôi nổi hơn khi nhắc lại những kỷ niệm làm phim một thời.
Câu chuyện của chúng tôi dẫn về đề tài người phụ nữ trong chiến tranh qua tác phẩm của ông. Đó chỉ là một mảng màu trong bức tranh đa sắc diện, nhiều chiều của sự nghiệp điện ảnh đồ sộ, sâu sắc và thấm đẫm tinh thần nhân văn mà ông cống hiến cho cuộc đời. Nhưng dù chỉ cái mảng màu ấy thôi, cũng gợi biết bao day dứt và suy tư về con người và thế sự đã ám ảnh ông trong suốt một thời gian dài.
_remini-enhanced.jpg)
Cảnh phim Bao giờ cho đến tháng Mười
Duyên trong Bao giờ cho đến tháng mười
Tác phẩm này đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp của Đặng Nhật Minh. Ra mắt khán giả năm 1984, bộ phim không chỉ được các nhà lý luận phê bình trong nước đánh giá cao mà còn được giới chuyên gia điện ảnh ở nhiều nước xếp vào một trong số những tác phẩm xuất sắc của châu Á và là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của điện ảnh Việt Nam.
Nhân vật chính trong Bao giờ cho đến tháng Mười là Duyên, một người phụ nữ có chồng hy sinh ở chiến trường. Mở đầu phim là cảnh chị Duyên về làng sau khi đi thăm chồng về. Nhưng chồng chị đã không còn nữa. Anh đã hy sinh trong một trận chiến đấu ở biên giới Tây Nam. Vì nỗi đau quá bất ngờ, vì đường xa mệt nhọc nên khi qua đò chị đã bị ngất đi, rơi xuống sông. May có Khang, một giáo viên trong làng đi cùng đò đã nhảy xuống sông vớt được chị. Khang cũng vớt lên được tờ giấy báo tử của chồng Duyên nên anh trở thành người đầu tiên biết cái tin này. Nhưng Duyên lại muốn giấu kín tin dữ đó, chị không muốn làm cho bố chồng đang già yếu phải đau buồn. Chị đã nhờ Khang viết những lá thư giả để làm yên lòng những người trong gia đình chồng. Mối quan hệ thầm kín của hai người bắt đầu từ đó. Cảm động trước sự hy sinh chịu đựng và nỗi mất mát của Duyên, Khang đã đem lòng yêu mến cô, muốn được thay thế người đã mất, lo toan cho cô và đứa con lên bảy tuổi. Anh viết thư bộc lộ những tình cảm đó với Duyên. Không may bức thư lọt vào tay bà chị dâu và câu chuyện vỡ lở khắp làng. Khang mang tiếng là người yêu phụ nữ có chồng là bộ đội đang chiến đấu ở xa. Anh bị điều đi dạy ở nơi khác. Còn Duyên vẫn âm thầm chịu đựng nỗi đau cho đến một ngày ông bố chồng sắp hấp hối bắt cô phải đánh điện xin cho chồng về. Thấy Duyên chần chừ, đứa con trai lên bảy đã tự ý lên bưu điện huyện để đánh điện cho bố. Giữa đường nó xin đi nhờ một xe com-măng-ca chở bộ đội. Những người lính trên xe biết rõ sự tình bèn đánh xe quay về làng. Khi họ về đến làng, đứng bên giường của bố chồng Duyên thì cũng vừa lúc cụ trút hơi thở cuối cùng sau khi tin rằng con trai mình đã về. Mọi người trong làng bây giờ mới biết rằng chồng Duyên đã hy sinh, họ không còn hiểu lầm Khang nữa, nhưng anh đã đi rồi. Bây giờ Duyên lại mong tin anh, mong anh trở lại... Ngày khai giảng, cô đưa con đến trường và hỏi thăm tin anh.
Bao giờ cho đến tháng Mười là một câu chuyện đời thường giàu tính nhân văn, mang chiều sâu văn hóa Việt và có sức gợi cảm lớn. Bộ phim khai thác mặt sau, thầm kín mà dữ dội của chiến tranh và đã trình bày trước công chúng một hiện thực khác, đầy mới mẻ so với các đạo diễn đương thời. Người phụ nữ (Duyên) trong tác phẩm là người lặng lẽ gánh chịu những mất mát của chiến tranh, nỗi đau mất chồng và những dị nghị tai tiếng giáng xuống cuộc đời người phụ nữ nông thôn thuần hậu. Và hơn thế, chị còn muốn vượt lên nổi đau của mình, xoa dịu nỗi đau của người khác, muốn che giấu sự hy sinh của chồng để đỡ cho người bố chồng một vết thương tinh thần khi cụ đang bước vào những ngày cuối cùng của cuộc đời. Người phụ nữ ấy yêu chồng mãnh liệt, và ban đêm đến phiên chợ âm dương với hy vọng gặp lại chồng trong cái thời khắc đặc biệt ấy, nơi con người ở cõi dương và cõi âm có thể giao hòa. Cái tình yêu bình dị, sâu sắc dành cho người chồng đã hy sinh của Duyên và lòng cam đảm, vượt lên trên nỗi đau riêng do chiến tranh mang lại để sống một cách cao cả, nhân ái, quên mình vì những người thân đã khiến chị trở thành một hình tượng điển hình mang những phẩm chất cao quý của người Việt Nam trong thời đại mới.

Nhân vật chính - Duyên trong Bao giờ cho đến tháng Mười
Nguyệt trong Cô gái trên sông
Bộ phim này được ra mắt năm 1987 và tạo nên cơn sốt phòng vé khắp trong Nam ngoài Bắc. Năm 1988, Cô gái trên sông được trao giải Bông sen Bạc trong Liên hoan phim Việt Nam lần thứ VIII tại Đà Nẵng.
Nhân vật chính là Nguyệt, một người phụ nữ làm nghề “bán thân nuôi miệng” trên sông Hương từ trước khi đất nước được thống nhất. Người phụ nữ ấy đã phải chịu tủi cực của một số phận dưới đáy cùng xã hội trong sự khinh thị, ruồng bỏ của người đời.
Câu chuyện tái hiện những ngày cơ cực lênh đênh trên sông Hương của Nguyệt trong những năm chiến tranh, cảnh phải ở trong trại phục hồi nhân phẩm và cảnh nghèo hèn sau chiến tranh. Và đặc biệt là cảnh Nguyệt bất ngờ nhìn thấy người mà cô từng là ân nhân cứu mạng giờ trở thành cán bộ cấp cao sau giải phóng, cô muốn gặp lại, không hẳn là để nhờ vả trong cảnh cùng quẫn, mà là để nhớ về một mối ân tình đã có với nhau. Nhưng người cán bộ đã từ chối gặp…
Chiến tranh, loạn lạc, những bi thương của kiếp người dưới đáy và khát vọng về một cuộc sống tươi đẹp hơn, về tình người chân thực thủy chung bị chối từ trong những ngày hòa bình đầu tiên… Tất cả đó đè nặng lên thân phân của Nguyệt và gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh về phẩm giá, về số phận con người nhỏ bé trong một xã hội mới đang xây dựng.

Cảnh phim Cô gái trên sông
Đặng Thùy Trâm trong Đừng đốt
Nếu như Bao giờ cho đến tháng Mười, Cô gái trên sông là câu chuyện hư cấu xuất phát từ hiện thực cuộc sống và số phận hàng vạn, hàng triệu người phụ nữ trong chiến tranh, thì Đừng đốt lại là một tác phẩm xuất phát từ hiện thực về một con người cụ thể, với những nguyên tắc khái quát khác của nghệ thuật.
Đạo diễn Đặng Nhật Minh nhớ lại:
“Cuối năm 2005 cả nước như lên cơn sốt về cuốn Nhật ký của nữ bác sĩ Liệt sĩ Đặng Thùy Trâm vừa mới được phát hiện. Báo Tuổi trẻ là tờ báo đầu tiên đăng tải những dòng nhật ký này trong suốt nhiều số báo. Cuối cùng cuốn nhật ký được xuất bản thành sách. Tôi mua một cuốn đem về đọc. Cái cảm giác đầu tiên của tôi là cảm thấy thương xót cho người con gái viết nhật ký. Một tâm hồn đa cảm, mong manh dễ vỡ như vậy lại bị ném vào một chiến trường khốc liệt đến như vậy.”
Sau đó đạo diễn Đặng Nhật Minh đã viết kịch bản dựa trên tư liệu từ cuốn nhật ký này. Kịch bản được làm phim do nhà nước đặt hàng. Đạo diễn nhớ lại những ngày làm phim: “Để tranh thủ mùa lá vàng nên chúng tôi đã bố trí lịch quay những cảnh bên Mỹ trước. Ngày 15 tháng 10 năm 2007, các thành phần chủ yếu của đoàn phim lên đường sang Mỹ. Cảnh quay dầ̀u tiên của phim diễn ra ven hồ trong một khu rừng tại Ocean Grove bang New Jersey. Khi đoàn đến, sương còn giăng kín mặt hồ. Trước khi bấm máy cả đoàn phim gồm người Việt, người Mỹ đã dành một phút mặc niệm nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm. Giây phút im lặng trong khu rừng lá vàng xào xạc ở nơi xa xôi này, làm tôi thực sự xúc động. Đó là kỷ niệm đầu tiên của tôi về việc làm phim mà cho đến giờ tôi vẫn nhớ như in. Những bối cảnh tiếp theo lần lượt được quay theo thứ tự chuẩn bị của bộ phận dựng cảnh. Một làng quê Quảng Ngãi được dựng ngay tại Đồng Mô cách Hà Nội 40km, để đảm bảo tính chân thật họa sĩ Pham Quốc Trung phải cho chở những cây dừa từ Thanh Hóa ra để trồng trong làng. Bệnh xá của BS Đặng Thùy Trâm được dựng trong một cánh rừng thuộc khu K9 (nơi từng bảo quản thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay sau khi Người vừa mất). Căn cứ quân đội Mỹ được dựng ngay trong sân bay Tân Sơn Nhất. Bãi đáp trực thăng trong cảnh lính Mỹ càn quét vào làng được thực hiện tại một cánh đồng ở Củ Chi cách TP. HCM 50km (mặc dù ngôi làng được dựng ở tận ngoài Bắc). Riêng trường đoạn đi tìm mộ chị Trâm chúng tôi quay ngay tại chính nơi chị đã ngã xuống ở Đức Phổ, Quảng Ngãi…”.

Nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm trong Đừng đốt
Đừng đốt tái hiện cuộc đời của liệt sĩ, bác sĩ Đặng Thùy Trâm. Một người phụ nữ xinh đẹp, tốt nghiệp Đại học Y, vào chiến trường. Chị đối mặt với khốc liệt của chiến tranh. Dũng cảm. Can trường. Đôn hậu. Phẩm giá và số phận của chị cũng là đại diện cho hàng vạn, hàng triệu người phụ nữ đã hy sinh cuộc đời mình trong chiến tranh vì độc lập và thống nhất của Tổ quốc. Tác phẩm đã gây được sự xúc động sâu sắc. Ngoài Giải Khán giả tại Liên hoan phim Fukuoka (Nhật Bản) vào tháng 10 năm 2009, tháng 12 năm 2009 phim Đừng đốt đoạt Giải Bông sen Vàng tại LHP Việt Nam lần thứ XVI, đến tháng 3 năm 2010 phim được tặng Giải Cánh Diều Vàng của Hội Điện ảnh Việt Nam. Đầu năm 2010 phim được Bộ VHTTDL quyết định gửi đi tham dự Giải Oscar cho phim nước ngoài tại Hoa Kỳ.
Ba bộ phim về số phận của những người phụ nữ trong chiến tranh, với những phương cách biểu đạt, hướng khai thác đề tài khác nhau của một đạo diễn nhưng đều để lại những ấn tượng sâu sắc và được đón nhận mãnh liệt từ khi mới ra đời. Điều đó nói lên sức hấp dẫn của một đề tài lớn, đồng thời minh chứng cho tài năng độc đáo, sự tinh tế và điều luyện của một nghệ sĩ lớn.
Đặng Nhật Minh là một cá tính sáng tạo đã mang đến cho điện ảnh Việt Nam sự vinh quang suốt mấy thập niên qua. Cuộc đời ông là một hành trình đi tìm cái đẹp, với sự biểu hiện nghệ thuật tinh tế, mang chiều sâu văn hóa dân tộc và tinh thần nhân văn sâu sắc. Tác phẩm của ông là sự phản ánh thân phận con người và là những suy tư sâu sắc về cuộc sống.

Cảnh phim Đừng đốt
THIÊN SƠN
Nguồn: Tạp chí VHNT số 623, tháng 10-2025
.png)



.jpg)

.jpg)
