Đón ngày hội mới

Chủ tịch Hồ Chí Minh tới thăm một lớp bình dân học vụ.
Ảnh: Tư liệu/Tuổi Trẻ

 

Đất nước ta đang trải qua những thời khắc đáng nhớ trong lịch sử khi cả dân tộc hân hoan chuẩn bị đón chào lễ kỷ niệm trọng đại Quốc khánh lần thứ 80 vào ngày 2/9/2025. 8 thập kỷ qua có thể khiến cho thời gian phủ lớp bụi lên vô vàn sự kiện lịch sử khác. Thế nhưng, trong ký ức, trong tâm thức của người dân đất Việt, hào khí thiêng liêng của Cách mạng Tháng Tám và Ngày Quốc khánh lại rộn rã trở lại vì các sự kiện này, năm 1945, đã phục sinh cả một dân tộc, một quốc gia từng bị nước ngoài đô hộ suốt hơn thế kỷ. Câu chuyện về bà nội tôi, một chứng nhân lịch sử, ít nhiều cũng phản chiếu thân phận của bao nhiêu người Việt Nam khác thuộc thế hệ trước Cách mạng.

“Bờ xôi ruộng mật”

Khi chúng tôi còn bé, bố mẹ hay đi làm ca đêm nên hai anh chúng tôi thường ở nhà với bà nội. Vì tôi còn nhỏ nên được ưu tiên ngủ chung với bà.

Trước khi lâng lâng đi vào giấc ngủ, bà hay rỉ rả kể cho tôi nghe các câu chuyện cổ tích, truyện thơ, ngâm nga câu hát ví hay thậm chí các câu ca dao tục ngữ. Phải nói rằng, thời đó, với 95% dân số Việt Nam là mù chữ, là thất học thì văn học truyền khẩu có sức mạnh lớn lao vô cùng. Với trí nhớ tuyệt vời, bà hay kể câu chuyện ngày xửa ngày xưa, trong đó có chuyện người nông dân chỉ cần vác cuốc ra cánh đồng là bới được ngay đầu bờ “xôi lúa thơm ngon với mật mía để chấm”, nên gọi là “bờ xôi ruộng mật”. Trí óc non nớt của tôi không đủ sức hiểu hình ảnh ẩn dụ về những cánh đồng phì nhiêu, màu mỡ cũng như mùa màng bội thu, đại diện bằng thứ thực phẩm được gọi là “ngọc thực” (lúa gạo)  vốn nuôi sống người nông dân Việt bấy lâu nay; lại càng không nhận thức nổi vì sao người ta lại có thể làm chủ được mảnh ruộng và thành quả lao động của mình để đuổi cái đói - một khát vọng cháy bỏng ngàn đời của người nông dân! Đối với tôi, đơn giản là, nếu ngay giây phút đó, trước khi đi ngủ mà có sẵn gói xôi chấm với mật để ăn thì ngon biết chừng nào! Rồi tôi thiếp đi trong “giấc mơ thần tiên có thực” đó…

Bà tôi là gái làng Gia Viên, tục gọi là làng Cấm, ven nội đô Hải Phòng. Xóm Cấm trong quá trình đô thị hóa đầu thế kỷ XX nổi danh là nơi của dân nghèo, dân ngụ cư, dân anh chị dạt về, vốn được nhà văn Nguyên Hồng (1918-1982) bất tử hóa trong các tác phẩm văn học của mình. Bà tôi đã nghèo lại lấy ông tôi vốn cũng vì nghèo mà phiêu bạt từ đất Nam Định ra đấy rồi làm ở một hãng tàu buôn chạy Bắc-Nam. Vì vậy, ông quanh năm suốt tháng vắng nhà. Thỉnh thoảng, ông mới ghé qua nhà đưa tiền nuôi con, còn hầu như phó mặc chuyện gia đình cho vợ.

Bố mẹ mất sớm, nhà chỉ có hai chị em, nên để kiếm sống, từ bé bà tôi đã phải lao động vất vả. Có đận, bà phải ra tận Hồng Quảng (Quảng Ninh) làm cu-li bốc vác than và cát đá cho mỏ; hay ra bến Sáu Kho, Hải Phòng, đội hàng ở bến cảng. Công việc cực kỳ nặng nhọc vì bà chỉ có thể bốc vác hàng hóa bằng cách “đội”, tức là trùm cái khăn vuông đen lên đầu rồi đội thúng hàng mà chuyển đến kho hay bến bãi như tất cả các chị em phụ nữ lao động khác làm ở đó thời bấy giờ. Bụi than bụi đất từ chiếc thúng có khi rơi xuống phủ mờ đôi mắt; người đội cứ thế loạng choạng, dò dẫm mà đi. Dằn bụng bằng củ khoai, củ sắn, bà tôi cắp nón ra đi từ mờ sương tới trưa mới được nghỉ để ăn năm cơm hẩm mang theo. Công việc đã nặng nhọc mà thi thoảng lại còn bị chủ người Pháp cúp lương, phạt tiền vì chậm trễ. Rồi khi tức mắt hay không bằng lòng vì cái cớ gì đó, tên chủ hay đốc công lại còn đá thốc vào đít người cu-li đang khuân vác, khiến cho thúng than hay cát đá lộn nhào, đổ hết xuống đất, thế là mất lương!

Ở ngoài đường phố, bọn Tây thích bợp tai, đá đít người dân nghèo, hay thích chòng ghẹo thiếu nữ nào thì chúng mặc nhiên làm vì pô-lít (cảnh sát) cũng làm ngơ!

Bao lần bà tôi phải ăn bát cơm hẩm chan với nước mắt và bụi than. Có lần, ngồi ở bãi biển Đồ Sơn, nhìn con dã tràng xe cát thành “lâu đài nhỏ” và ụp một cái, phút giây sau sóng biển tràn vào phá tan ‘lâu đài’ khiến con dã tràng lại cuống quýt chạy tới chạy lui để xây lại “công trình” khác và để rồi lại “tay trắng”; cứ thế bà đã ngồi khóc thực sự - chắc trong vô thức, bà liên tưởng tới thân phận hẩm hiu của mình và số đông người dân Việt nghèo khổ nô lệ lúc bấy giờ.

Nhân dân tổ chức mít tinh tại Nhà hát Lớn Hải Phòng, ngày 23/8/1945 - Ảnh: Bảo tàng Hải Phòng

 

Làng Gia Viên có hai tộc học là dân sở tại, họ Nguyễn Văn và họ Nguyễn Huy, cùng chia sẻ ngôi đình, ngôi chùa và miếu đền chung của làng. Tuy nhiên, họ Nguyễn Văn có vẻ có ưu thế hơn vì có người giữ “chức tước” hay có “phẩm hàm”  trong làng. Mặc dù chức vị như  Tiên chỉ, Lý trưởng, Chánh tổng hay Bá hộ, Bát phẩm, Cửu phẩm v.v. giai đoạn đó, phần lớn chỉ là hư danh vì được triều đình ban cho những ai giàu có, đóng góp nhiều tiền vào ngân khố nhà nước, trong khi quyền lực cai trị thực sự nằm trong tay thực dân Pháp. Nhưng những người đó lại có “tiếng nói” với tộc họ, làng nước và họ cũng muốn duy trì các hủ tục vốn có của xã hội cũ để dễ bề thao túng trong họ ngoài làng. Các buổi tế lễ, hương ẩm hay họp việc làng hay bị biến thành dịp để người ta mượn hơi rượu nhằm gây xích mích, tranh giành, cãi nhau, thậm chí là đánh nhau. Các “cụ Lý, cụ Bá” rất hách; luôn luôn cất cao giọng quát tháo, dọa nạt dân đen. Khi “các cụ” ra đường là dân phải cúi chào khép nép.

Hủ tục phong kiến khiến bà tôi cũng như bao phụ nữ khác không được ra đình với tư cách ngang bằng như nam giới mà phải an phận thủ thường trong nhà, tức là không có quyền tham gia việc làng xóm nhưng lại hồi hộp, lo âu mỗi khi nghe tiếng trống giục sưu thuế “liên hồi kỳ trận” từ sân đình vọng về.

Có đêm, tôi mãi mới đi vào giấc ngủ chỉ vì trong đầu óc non nớt của mình, tôi thấy cứ bâng khuâng, man mác kiểu gì không hiểu nổi, khi bà nội đọc câu thơ lấy từ truyện Nôm cổ của ta:

 “Con bà đâu, cháu bà đâu?

Mà sao bà ở chuồng trâu nhà người?”

Tôi hình dung ra được một phần thân phận của bà tôi trong đó, những đêm trước Cách mạng ở một vùng quê dưới chế độ nửa phong kiến-nửa thực dân.

Nguyễn Đức Hòa, Gánh quà rong, khắc gỗ, 1990

 

Đổi đời

Trong cái rương gỗ chứa đồ dùng của bà tôi, có một chiếc nón mà bà gọi là “nón Dứa” hay “nón Nghệ”. Chiếc nón trông khá đẹp, khác với nón mê, nón lá người ta dùng hằng ngày; nó được làm từ khung tre-mây rất chắc chắn và lợp lá cũng dày dặn; thân nó nhìn xuôi xuôi từ chóp xuống, hao hao cái chuông; và đặc biệt, lòng chóp nón (cái khùa) có đính một mảnh gương tròn bé xíu, bao quanh là chỉ màu. Thành nón phía có trang trí một vài hình hoa bướm cũng đan kết bằng chỉ màu.

Trẻ con chúng tôi không được phép động chạm đến chiếc nón đó trừ khi bà tôi lấy ra đội thì được dịp ngắm nghía đôi chút. Mà cũng lạ, tôi ít thấy bà mang chiếc nón này trừ những dịp trọng đại như ngày Bầu cử hay ngày Quốc khánh. Hóa ra, chiếc nón đã trở thành một kỷ vật gắn với trải nghiệm có một không hai trong đời bà tôi. Nó là “nhân chứng” cho hai chế độ: trước và sau Cách mạng Tháng Tám. Chính vào ngày Hải Phòng cướp chính quyền, 23 tháng 8 năm 1945, bà tôi cũng đội chiếc nón này đi dự mít tinh ở Quảng trường Nhà hát Lớn thành phố!

Bà nhớ lại, khoảng một tuần trước đấy thì toàn thành phố, từ nội đô tới ngoại thành, đều rộn ràng khí thế sôi nổi pha chút hồi hộp, lo âu như thể đang chờ đón một sự kiện gì đó vô cùng trọng đại. Các đội thanh niên tự vệ đi khắp các ngõ ngách, phố phường để phát động bà con đứng dậy hưởng ứng Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay Việt Minh. Nhà tôi được phát một lá cờ đỏ sao vàng khá to để treo lên cây ổi cổ thụ trước nhà.

Sáng ngày 23 tháng 8, ào ạt hàng vạn người từ khắp các nẻo đường tràn vào thành phố như nước lũ. Bà tôi mặc bộ áo cánh trắng, quần đen và chiếc áo dài nâu-đen duy nhất tươm tất, đội chiếc nón Dứa và rủ mấy bà bạn rảo bộ tới tận quảng trường Nhà hát lớn để dự mít tinh. Trong rừng cờ biểu ngữ và cờ đỏ sao vàng, cả biển người reo hò hớn hở. Tiếng hoan hô rầm rộ như long trời lở đất khi ông Vũ Quốc Uy (1920-1994), Đại diện Việt Minh, Chủ tịch Ủy ban Cách mạng Lâm thời xuất hiện trên Lễ đài trước Nhà hát Lớn thành phố cùng một số người khác, tuyên bố xóa bỏ chính quyền cũ và thành lập chính quyền nhân dân. Trời mùa thu nắng hanh, tôi hình dung ra đám đông đã vỡ òa niềm vui sướng như thế nào khi trở thành người dân một nước độc lập, khi được sống tự do, được kiếm sống, mưu cầu hạnh phúc cho mình. Tiếp theo đó, vào ngày 2 tháng 9, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Bác Hồ đã đọc trước quốc dân đồng bào bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử, chấm dứt 80 năm đô hộ của thực dân Pháp và khai sinh ra nước Việt Nam mới: nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Những ngày sau Cách mạng Tháng Tám, thực sự là ngày tháng của men say hội hè. Tối tối người ta í ới rủ nhau ra đình hội họp để nghe về các chính sách mới của Chính quyền Nhân dân. Bà tôi cùng các chị em khác cũng ra đình tham gia với mọi người. Bầu không khí trong làng xóm những ngày ấy rộn ràng, vui tươi, sôi nổi - cũng tương tự như những năm sau Hòa bình, khi bà con nông dân được chia ruộng đất mà mấy câu thơ nữ thi sĩ Vân Đài (1903-1964) viết trong tập thơ “Mùa hái quả” của mình đã khắc họa:

    “Gánh thóc em về xóm Giếng xa

    Đường mai, nón lá trắng đầy hoa

    Xóm thôn ơi ới mời nhau họp

    Anh đợi chờ em trước cửa nhà”

Bố mẹ tôi (khi đó còn tuổi thiếu nhi, lại ở gần nhà nhau) thì đi sinh hoạt đội thiếu niên nhi đồng xóm và cũng hằng tối kéo ra sân Nhà thờ Nam Hải để các anh chị lớn hơn cho đội mũ ca-nô bằng giấy gấp rồi tập đi đều “một, hai”, tập đánh trống cổ động, trống chào cờ, tập võ, hay hát múa tưng bừng. Cả người lớn lẫn thanh thiếu niên nhi đồng, ai ai cũng rạng rỡ mặt mày, hồ hởi, tham gia sinh hoạt hay hoạt động đoàn thể không biết mệt mỏi. Những mối hận thù giữa hai họ tộc lớn trong làng cũng được hóa giải. Các ông có “phẩm hàm, chức tước” trước đây thì nay trở nên nhún nhường, khiêm tốn, không dám vênh váo, lên mặt với dân làng, trở nên hòa đồng, ôn tồn với tất cả mọi người.

Rồi bà tôi học Bình dân học vụ theo Chính sách “Diệt giặc dốt” của Chủ tịch Chính phủ để biết đánh vần, đọc chữ hay hay tự mình ký tên vào các giấy tờ cần thiết. Phong trào cũng sôi nổi lắm! Ở bãi chợ, người ta dựng một cái cổng phụ gọi là cổng “mù chữ” bên cạnh cổng chính ra vào chợ để đội tự vệ và Bình dân học vụ kiểm tra. Nơi đó dán nhiều khẩu hiệu hay thông cáo bằng giấy, hoặc viết bằng gạch non hay vôi trắng lên tường khẩu hiệu chữ to. Mọi người đi qua bị chặn lại, bị yêu cầu tập đánh vần hay đọc ra được cái gì đó từ những dòng chữ đã viết; ai chưa làm nổi thì sẽ phải chui qua cổng phụ để vào chợ. Không những vậy, các lớp Bình dân họ vụ còn mở ở sân đình chùa, miếu mạo. Tối tối, dưới ánh đèn dầu tù mù, học viên ngồi ê a đánh vần dưới sự hướng dẫn của người biết chữ được trưng dụng làm ‘thầy cô’ mà trong rất nhiều trường hợp, còn ở độ tuổi thiếu niên, ví dụ như mẹ tôi khi đó chẳng hạn. Người ta còn sáng tác các bài văn vần để dạy học theo lối truyền khẩu như “O tròn như quả trứng gà…” mà thực tế rất hiệu quả,

Cứ vậy, số người biết đọc biết viết cơ bản tăng lên hằng tuần. Tôi đã từng ngẩn ngơ ngắm thẻ chứng minh thư (căn cước) và thẻ bầu cử cũ kỹ - kỷ vật từ bà tôi, với chữ ký vừa run run, vừa rụt rè như kiểu  người ta ngỡ ngàng, thiếu tự tin khi “biết làm” và “làm được” một việc tối quan trọng như vậy.     

Bà tôi vốn thất học như bao người phụ nữ khác thuở ấy nên không thể suy nghĩ và trả lời một cách “lý luận” nếu ai hỏi: “Cách mạng Tháng Tám có ý nghĩa gì với người dân Việt Nam?”. Nhưng tôi tin chắc rằng, Cách mạng đối với bà tôi là sự đổi đời, sự “sống lại” vì bà trở thành người có đầy đủ quyền công dân của  nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; bà có quyền đi ra Đình hội họp, tự viết lá phiếu cử tri khi có bầu cử, quyền bình đẳng với tất cả mọi người, quyền được kiếm sống để có “xôi, ăn với mật mía”do chính mình làm ra mà không bị ai cướp mất, như ước vọng ngàn đời nay của cha ông, của tổ tiên bà.

Nguyễn Tư Nghiêm, Giao thừa bên Hồ Gươm, sơn mài, 1957, Sưu tập Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam

 

Sau này, mỗi khi hồi tưởng lại hình ảnh bà tôi đội chiếc nón Dứa quý giá để đi dự sự kiện gì đó của đất nước, của thành phố, hay của Khu hoặc Tiểu khu (gần tương đương với “Quận’ và “Phường” sau này), vô tình tôi thường liên hệ tới câu hát trong bài “Chiếc nón bài thơ” của nhạc sĩ Lê Việt Hòa, lời Sơn Tùng: “Anh gửi tặng em chiếc nón bài thơ xứ Nghệ… Em đội nón bài thơ, đi đón ngày hội mới”.

Quả thật, thay vì thúng than hay thúng cát đá vít cái đầu cái cổ xuống, giờ bà tôi được ngẩng cao đầu đội chiếc nón Dứa trong những ngày hội của làng xã, của dân tộc, và quan trọng nhất là, dưới một bầu trời xanh lồng lộng - bầu trời của Độc lập-Tự do.

 

TRẦN ĐOÀN LÂM

Nguồn: Tạp chí VHNT số 614, tháng 7-2025

 

;