Đổi mới chính sách phát triển con người nhằm bảo đảm sự phát triển con người toàn diện là vấn đề thường xuyên, liên tục và lâu dài của mỗi quốc gia, dân tộc nói chung cũng như ở Việt Nam nói riêng. Mọi năng lực về thể chất, tinh thần, trí tuệ, nhân cách con người được phát triển đầy đủ sẽ góp phần quan trọng tạo động lực bền vững cho sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Quá trình này cần được quan tâm đúng mức và tuân thủ chặt chẽ các vấn đề có tính nguyên tắc, nhất là đổi mới các chính sách tác động để con người thực sự vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Trong mọi thời đại lịch sử, con người luôn là vấn đề trung tâm của triết học. Học thuyết Mác là sự tiếp nối, là bước ngoặt trong nhận thức về phát triển con người đã chỉ ra con người trong mối quan hệ hài hòa với tự nhiên và xã hội, phát triển các giá trị văn hóa, tinh thần của con người, sự phong phú của bản chất con người, nâng cao năng lực con người, giải phóng con người khỏi mọi sự tha hóa, phiến diện, què quặt do tình trạng bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Trên cơ sở đó, con người phát triển cá tính, năng khiếu, sự tự do và năng lực làm chủ xã hội của mình. Phát triển con người là phát triển những năng lực mang phẩm chất người, năng lực chinh phục tự nhiên, cải biến xã hội và làm chủ bản thân mình.
Theo C.Mác, con người không chỉ là sản phẩm mà còn là chủ thể của lịch sử - xã hội. Vì vậy, sự phát triển con người toàn diện luôn gắn với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, từ nhu cầu và sự sinh tồn của cuộc sống, bằng hoạt động thực tiễn, mà trước hết là lao động sản xuất - quá trình này đóng vai trò nền tảng trong việc hoàn thiện và phát triển con người toàn diện.
Với bản chất cách mạng và khoa học, học thuyết Mác về con người và phát triển con người đã trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho chính sách phát triển con người của nước ta, được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp thu, phát triển trong thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Ngay trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (1959), Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nhà nước chú trọng đặc biệt việc giáo dục thanh niên về đức dục, trí dục, thể dục” (1). Khái quát về con người toàn diện, Hồ Chí Minh gọi con người đó phải có đủ đức và tài, hồng và chuyên.
Nhất quán về chính sách phát triển con người toàn diện, trong Cương lĩnh của Đảng chỉ rõ: “Đó là con người có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe và lao động giỏi; sống có văn hóa và tình nghĩa; giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính”. Tại Đại hội IX, Đảng ta cho rằng phát triển con người toàn diện ở Việt Nam cần phải hướng đến con người “Phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội”. Tại Đại hội XII, khi tiếp tục khẳng định quan điểm phát triển con người toàn diện, Đảng ta đã đề ra mục tiêu là phải “Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính”.
Về nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, khẳng định: “Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc”.
Có thể thấy rằng, chính sách phát triển con người của Đảng và Nhà nước ta là chủ trương xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện trên cả hai phương diện: phát triển con người toàn diện với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam; phát triển con người toàn diện là phát triển về các phương diện thể lực, trí lực và tâm lực. Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người và phát triển con người toàn diện là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, là nhiệm vụ trung tâm, động lực của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội luôn gắn liền với giải phóng và phát triển con người Việt Nam. Xem xét con người với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn coi việc kết hợp chặt chẽ giữa động lực vật chất và động lực tinh thần. Kết hợp chăm lo đờisống vật chất cho nhân dân gắn với việc kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, xây dựng một nền văn hóa mới, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện để con người Việt Nam phát triển toàn diện. Đảng và Nhà nước ta đã giải quyết vấn đề này trong mối quan hệ biện chứng, trong khi khẳng định thể lực là cái trước tiên, đóng vai trò nền tảng ban đầu, trí lực là nhân tố phản ánh sự phát triển về chất lượng con người Việt Nam. Cùng với hai yếu tố đó, tâm lực là yếu tố hết sức quan trọng và không thể thiếu trong con người toàn diện. Đảng và Nhà nước ta đưa ra nhiều chủ trương, biện pháp và triển khai thực hiện trên thực tế để phát triển về cả ba mặt đó trong con người Việt Nam phù hợp với từng giai đoạn lịch sử của đất nước.
Chính sách phát triển con người toàn diện của Đảng và Nhà nước ta có quan hệ khăng khít với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới chính sách phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay không chỉ nhằm phát triển những giá trị tốt đẹp của cá nhân con người, mà hơn thế, còn hướng đến sự phát triển con người xã hội, bao gồm toàn thể cộng đồng - nhân dân (gồm các giai cấp, tầng lớp, bộ phận dân cư, lứa tuổi, giới tính…). Vì vậy, để đổi mới chính sách phát triển con người toàn diện ở Việt Nam, cần có sự tham gia của toàn xã hội và thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển con người Việt Nam đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế. Xây dựng chiến lược phát triển con người toàn diện là một trong những vấn đề cơ bản trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, cần xác định rõ mục tiêu, phương hướng và những giải pháp cơ bản cho việc xây dựng con người Việt Nam.
Thứ hai, kết hợp nâng cao đờisống vật chất và tinh thần của con người Việt Nam. Đây là nội dung quan trọng trong sự phát triển con người toàn diện. Nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân là nền tảng vững chắc nhất để nhân dân có điều kiện phát triển toàn diện cả về thể chất, lẫn trí tuệ và nâng cao đời sống tinh thần. Cùng với nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, đẩy mạnh quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời phải làm cho văn hóa trở thành nền tảng tinh thần của xã hội.
Thứ ba, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sẽ tạo điều kiện để phát huy tính sáng tạo của con người. Hơn nữa, thông qua cạnh tranh trên thị trường, cuộc sống của xã hội công nghiệp, người lao động nước ta mới có điều kiện nâng cao giá trị sức lao động của mình, nâng tầm giá trị lao động của người Việt Nam, nhờ đó cho phép chúng ta tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Tuy nhiên, kinh tế thị trường và công nghiệp hóa, hiện đại hóa có những mặt trái làm ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển con người Việt Nam. Vì thế đòi hỏi chúng ta phải gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội phải đảm bảo các quyền cơ bản của nhân dân trên tất cả các mặt từ kinh tế, chính trị cho đến xã hội, văn hóa...
Thứ tư, tiếp tục đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo nhằm phát triển chất lượng con người Việt Nam. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo là nhân tố quyết định đến phát triển chất lượng con người Việt Nam, là yếu tố đóng vai trò bậc nhất trong việc xây dựng con người Việt Nam mới - con người phát triển toàn diện. Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục - đào tạo thực chất là nhằm đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển con người Việt Nam chất lượng, phát triển cả về đức, trí, thể, mỹ nhằm đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Để thực hiện thắng lợi chiến lược đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo chúng ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Trên tinh thần đó, cần quán triệt quan điểm giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu; thực hiện xã hội hóa giáo dục kết hợp với xây dựng mô hình giáo dục chất lượng cao; kết hợp nâng cao dân trí với bồi dưỡng và sử dụng nhân tài; đổi mới công tác quản lý giáo dục; nội dung, phương pháp dạy và học phải hướng đến sự phát triển con người toàn diện; chăm lo đến đội ngũ nhà giáo gắn với hiện đại hóa cơ sở vật chất phục vụ giáo dục - đào tạo; tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo.
Thứ năm, tiếp tục kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp gắn với tăng cường xây dựng niềm tin, lý tưởng cách mạng trong con người Việt Nam. Đạo đức luôn giữ vị trí hàng đầu trong bậc thang giá trị của con người Việt Nam. Nền tảng đạo đức của xã hội Việt Nam là một trong những yếu tố cơ bản cấu thành và làm nên cốt cách, bản sắc tinh thần phong phú, tốt đẹp của con người Việt Nam. Kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp trong con người Việt Nam đồng nghĩa với việc phải thường xuyên đấu tranh loại trừ ra khỏi đời sống xã hội và con người Việt Nam những hiện tượng đạo đức hủ bại, kết hợp với việc chống lại những đạo đức và văn hóa mới phản tiến bộ, trái với các chuẩn mực xã hội và thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Cùng với kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp, việc tăng cường giáo dục niềm tin và lý tưởng cách mạng trong con người Việt Nam là cần thiết. Phải làm cho Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự trở thành nền tảng tinh thần trong đời sống xã hội và của mọi người dân Việt Nam. Theo đó, cần có sự kết hợp giữa giáo dục và tự giáo dục. Công tác giáo dục phải kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội; kết hợp giữa giáo dục bằng các chương trình chính thống với thông tin đại chúng để thường xuyên tuyên truyền đến mọi người dân về những giá trị lý luận và thực tiễn tốt đẹp trong lịch sử cũng như những giá trị tiên tiến, văn minh của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế. Mặt khác, phát huy tinh thần tự giáo dục, mỗi con người Việt Nam phải thường xuyên tu dưỡng và rèn luyện đạo đức, niềm tin, lý tưởng cách mạng; biết chắt lọc những giá trị tốt và tiến bộ, làm cho tâm hồn của mình được trong sáng; mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn phải nhằm đạt tới giá trị chân, thiện, mỹ.
Thứ sáu, xây dựng, tổ chức thực hiện và giám sát hiệu quả hệ thống chính sách xã hội vì mục tiêu phát triển con người toàn diện, cần thực hiện tốt một số chính sách sau: tập trung giải quyết tốt lao động, việc làm; bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo; chăm sóc sức khỏe nhân dân, kế hoạch hóa gia đình; tiếp tục phát huy dân chủ kết hợp với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là yếu tố cơ bản trong phát triển con người toàn diện.
Chăm lo phát triển con người toàn diện là mục tiêu phấn đấu cao nhất của Đảng, Nhà nước và chế độ ta, là nhiệm vụ trung tâm, động lực của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội luôn gắn liền với giải phóng và phát triển con người Việt Nam. Xem xét con người với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm kết hợp chăm lo đời sống vật chất cho nhân dân, gắn với việc kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, xây dựng một nền văn hóa mới, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện để con người Việt Nam phát triển toàn diện, nhất là trong bối cảnh của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xu thế hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế tri thức ngày càng cao hiện nay.
_______________
1. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1996, tr.593.
2.Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.15.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2001, tr.114.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.40.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, 2014.
Tác giả: Nguyễn Hữu Hồi
Nguồn: Tạp chí VHNT số 449, tháng 1-2021