Với hệ thống kênh rạch chằng chịt, châu thổ Cửu Long từ lâu đã nổi tiếng là nơi sông nước hữu tình, hội tụ hệ sinh thái phong phú và nền văn hóa đặc sắc. Ngay từ buổi đầu mở cõi, cư dân nơi đây đã học cách sống chung với nước, tích lũy kinh nghiệm để hòa hợp với thiên nhiên, dần hình thành nét văn hóa riêng, ăn sâu vào tâm thức và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ở miền sông nước ấy, mỗi mùa đều mang một dấu ấn riêng. Đặc biệt, Tết trên sông không chỉ là một nét đẹp văn hóa mà còn trở thành biểu tượng cho hồn cốt của vùng đất “trên cơm, dưới cá”.
Tiểu thương chạy ghe chở hoa kiểng đến miệt vườn thuộc huyện Phong Điền, TP Cần Thơ bán cho người dân - Nguồn: thanhnien.vn
Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở những giá trị văn hóa, sông nước miền Tây còn đóng vai trò là nguồn sống dồi dào, ngư trường trù phú và thủy lộ huyết mạch trong đời sống cư dân. Tận dụng lợi thế đó, nhiều hộ dân đã chọn ghe làm nhà, sống cuộc đời lênh đênh, hoặc xây dựng những chiếc bè lớn vừa để sinh sống vừa làm phương tiện mưu sinh. Những chiếc bè ấy không chỉ phục vụ mục đích buôn bán, nuôi cá mà còn góp phần tạo nên nét văn hóa làng bè độc đáo. Đặc biệt, từ những năm 1990 đến 2005, nghề nuôi cá bè bùng nổ tại ngã ba sông Châu Đốc, biến nơi đây thành một làng nổi sầm uất với hàng trăm chiếc bè, biểu tượng cho sức sống mãnh liệt và sự trù phú của vùng đất miền Tây.
Không chỉ là minh chứng cho tiềm năng kinh tế, làng bè còn khắc họa lối sống hòa hợp với sông nước của người dân nơi đây. Trên những chiếc bè, cư dân không chỉ duy trì thói quen sinh hoạt quen thuộc mà còn khéo léo thích nghi với điều kiện sống đặc thù “ăn theo thói, ở theo thời”, đặc biệt trong những dịp Xuân về. Những ngày giáp Tết, trên các bè cá, người dân rộn ràng sơn sửa lại bè, dọn dẹp sạch sẽ, mua chậu bông cúc, mai vàng để trang trí các góc cột, giữa gian bè, biến không gian sống thành một “ngôi nhà Tết” nổi bật giữa dòng sông. Hình ảnh những chiếc bè trang hoàng rực rỡ sắc xuân, in bóng xuống làn nước, không chỉ mang đến sự sinh động mà còn chứa đựng vẻ đẹp văn hóa đầy cảm hứng.
Không chỉ riêng người dân làng bè, văn hóa đón Tết trên sông còn được duy trì bởi các cư dân khách thương hồ. Tất cả cùng hòa mình vào bức tranh Xuân rộn ràng, nơi nét đẹp văn hóa sông nước được gìn giữ, tiếp nối và lan tỏa qua thời gian. “Khách thương hồ” là cách gọi đầy thân thuộc của người miền Tây dành cho những hộ dân sống bằng nghề sông nước, lấy ghe làm nhà và cuộc đời gắn liền với dòng sông. Họ rong ruổi khắp nơi, buôn bán trên các tuyến sông ngòi chằng chịt, mang theo cả văn hóa và bản sắc riêng của mình đến từng vùng đất mà họ đi qua. Dù sống đời “nay đây mai đó,” những cư dân thương hồ vẫn giữ gìn những nét truyền thống và hòa mình vào không khí rộn ràng, tươi vui của ngày Tết, làm nên một bức tranh Xuân sinh động, đậm chất văn hóa sông nước miền Tây.
Đối với khách thương hồ, chiếc ghe không chỉ là phương tiện mưu sinh mà còn là ngôi nhà di động, nơi vừa làm kế sinh nhai lại vừa dựng nên không gian sống ấm cúng. Ngày Tết, dù công việc buôn bán tất bật, khách thương hồ vẫn dành thời gian để trang hoàng ghe thật đẹp, không thua kém những ngôi nhà trên bờ. Một góc ghe thường được dành riêng để bày biện hoa Tết rực rỡ, từ chậu cúc vàng, nhánh mai khoe sắc đến tấm liễn đỏ “xuất nhập bình an”, “ngũ phúc lâm môn” dán trước cửa ghe giản dị nhưng chứa đầy không khí Xuân về. Nghề thương hồ, đặc biệt vào dịp Tết, luôn bận rộn đến mức họ phải tất bật làm việc không ngơi tay, thậm chí buôn bán đến tận Giao thừa. Tuy vậy, dù công việc có vất vả thế nào, những người sống đời lênh đênh trên sông vẫn luôn dành thời gian để sửa soạn, chuẩn bị cho mình một mâm cúng giao thừa thật đầy đủ và ý nghĩa “cầu dừa khổ qua” hay “cầu dừa đủ sài (xoài)”.
Đồng bằng sông Cửu Long hiện có trên hai mươi chợ nổi, trong đó Phong Điền, Cái Răng (Cần Thơ), Trà Ôn (Vĩnh Long), Cồn Tròn (Tiền Giang), Chợ Thơm (Bến Tre), Cà Mau… là những chợ nổi được nhiều du khách biết đến - Nguồn: Báo Môi Trường và Cuộc Sống
Từ ngày 23 tháng Chạp, các gia đình thương hồ bắt đầu chuẩn bị cho lễ cúng ông tiễn đưa Táo từ ghe về trời. Khác với người sống trên bờ, thay vì thả cá chép, họ thường thả một chiếc thuyền nhỏ tượng trưng làm từ thân cây chuối, với niềm tin rằng, sống trên ghe thì ông Táo cũng cần ghe thuyền để về Thiên Đình tấu trình. Đến ngày 28 Tết, không khí trở nên náo nhiệt hơn. Người ta cọ rửa ghe sạch sẽ, tẩy rong rêu, sơn phết, vẽ lại mắt và các họa tiết cho ghe như một cách “mặc áo mới”. Theo quan niệm của dân thương hồ, nếu người cần quần áo đẹp để đón Tết, thì ghe – vật gắn bó cả đời với họ – cũng cần được tân trang, chuẩn bị cho một năm mới thuận buồm xuôi gió và mọi chuyến đi đều hanh thông.
Cùng với việc sửa soạn ghe, khách thương hồ cũng không quên các nghi lễ tâm linh quan trọng. Ngoài mâm cúng rước ông bà, họ còn chuẩn bị một mâm cúng đặc biệt dành cho Bà Cậu – vị thần bảo hộ sông nước theo tín ngưỡng của người miền Tây. Mâm cúng này thể hiện lòng thành kính và những nguyện ước cho một năm an lành, thuận buồm xuôi gió. Những gia đình khá giả thường cúng tam sên, cặp vịt, biểu tượng của sự nhanh nhẹn và linh hoạt, trong khi những gia đình khó khăn chỉ cần một trái dừa, với mong muốn “nổi” như dừa trên nước, ghe đi xuôi chèo mát mái, thuận buồm xuôi gió, buôn bán hanh thông.
Theo thói quen có từ lâu đời, trong ba ngày Tết, khách hồ thường dừng việc rong ruổi mà sẽ tấp lại một nơi, đó là quê hương gốc của họ hoặc một nơi họ xem là “quê hương” bởi sự gắn kết, nghĩa tình nào đó trong cuộc sống. Đó có thể là nơi khi đau ruột thừa họ ghé vào và được bà con cứu giúp, họ xem xóm đó là quê hương mình; hay đó là nơi ông bà trút hơi thở cuối cùng trên ghe, được người dân rộng bụng cho mai táng trên đất làng nên xem nơi gửi gắm xương cốt ông cha là nơi chôn nhau cắt rốn. Dù đi đâu, về đâu thì ba ngày Tết cũng phải quay về thăm hỏi, đền đáp nghĩa ơn. Những ngày này, những chiếc ghe thương hồ tấp lại kề bên nhau, lai rai nói chuyện làm ăn một năm qua được mất ra sao. Từ ghe này bước sang ghe kia chia sẻ miếng khô, hủ ớt ngâm giấm hay chai rượu gò mà họ đã cất giữ từ lâu chờ cho Tết đến. Không khí “ăn Tết” trên ghe thấm đẫm chất sông nước mà chứa đựng đầy nghĩa tình, như lục bình trôi vô định nhưng vẫn tim tím trổ hoa cho đời thêm đẹp.
Bên cạnh khách thương hồ luôn gắn bó với dòng sông, nghề đánh bắt cá của dân hạ bạc cũng mang lại một nét chấm phá độc đáo, góp phần làm phong phú bức tranh văn hóa sông nước miền Tây. Tuy nhiên, trong khi khách thương hồ rong ruổi theo con nước để buôn bán, dân hạ bạc lại dầm mình trong từng con lạch, nhánh sông để mưu sinh. Người theo nghề hạ bạc, ít có ai giàu có bởi lời nguyền “nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá”. Hoặc có khi trúng cá giàu có, họ cũng sẽ bỏ nghề để lên bờ sống, bởi nghề này cực nhọc, bấp bênh theo con nước mà lại tiềm ẩn nhiều rủi ro. Dẫu vậy, vào mỗi dịp Tết, dân hạ bạc vẫn giữ một thói quen rất đáng trân trọng: tạm dừng việc đánh bắt, nhường sự yên bình lại cho dòng sông. Đây không chỉ là tâm thức của nghề, “làm cả năm cũng phải để sông nghỉ ngơi”, mà còn là đức tin tôn giáo sâu sắc của người miền Tây bởi sự răn dạy tránh sát sinh trong những ngày khởi đầu một năm mới. Sâu xa hơn cả, điều này thể hiện sự hòa hiếu và tôn trọng tự nhiên, một giá trị đã thấm sâu trong tâm thức người dân miền sông nước. Chính vì thế, trong những ngày Tết, các đoạn sông vốn từng sôi động với cảnh đánh bắt như ở đầu nguồn An Phú, Đồng Tháp Mười, hay sông Vàm Nao, nay trở nên yên ả và tĩnh lặng. Những chiếc ghe hạ bạc lặng lẽ neo đậu bên bờ, khói bếp toả lên từ những bữa cơm chay giản dị, nhưng thấm đượm nghĩa tình với những câu chuyện đầy triết lý về một năm “có cho, có nhận”, “sống thương sông ắt Bà Cậu đãi”…
Tết trên sông như một bức tranh mà chấm phá nào cũng là chi tiết nghệ thuật. Bức tranh không chỉ dừng lại ở sự trầm lắng của người hạ bạc mà còn được điểm tô bởi nét đặc trưng văn hóa của các phong tục đầy tính tâm linh. Trong đó, lễ cúng việc lề là một minh chứng rõ nét cho mối gắn kết sâu sắc giữa truyền thống gia đình và dòng sông. Đây là phong tục vốn có của các dòng họ lớn từ miền Trung vào Nam khai hoang lập nghiệp với món lễ vật hết sức đặc trưng gắn liền với câu chuyện riêng của từng dòng họ. Ví dụ như dòng họ Võ ở Châu Đốc có người làm tướng trong triều nên ngày cúng việc lề sẽ có món “nem công, chả phượng”; dòng họ Nguyễn ở Chợ Mới có người bị cọp vồ chết lúc đi khai hoang nên trong vật lễ phải có miếng da cọp… Những lễ vật này là tín hiệu đặc biệt để người ta nhìn nhận cùng dòng họ với nhau. Sau buổi cúng việc lề, mỗi dòng họ sẽ đóng một ghe bầu tượng trưng giống hồi đi khai hoang, dài chừng một mét, rồi đem thả xuống sông với tâm niệm “nam tiến bắc hồi”. Cúi đầu tiễn ông bà “Từ độ mang gương đi mở cõi/ Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long” dong ghe bầu về “thăm lại non sông giống Lạc Hồng”. Các dòng họ thường tự hào, càng trang trí lộng lẫy, chiếc ghe bầu tế lễ càng thể hiện lòng thành kính và nề nếp gia phong. Trong ngày Xuân, khi những chiếc ghe nhỏ xinh trôi dọc theo các con sông, đó không chỉ là hình ảnh đẹp mà còn là lời nhắc nhở về cội nguồn, sự biết ơn với tổ tiên đã khai khẩn nên vùng đất màu mở và trù phú của Tổ quốc.
Tiếp nối ý nghĩa truyền thống ấy, một nét đẹp khác của Tết miền Tây chính là ký ức về những ghe bầu gánh hát cải lương – một thời vàng son của nghệ thuật sân khấu Nam Bộ. Nếu lễ cúng việc lề gắn bó với giá trị tâm linh và gia tộc thì ghe bầu gánh hát lại là nơi khơi dậy niềm vui, gắn kết cộng đồng qua những câu vọng cổ ngân nga. Ông bà lớn tuổi thường kể, thời xưa các gánh hát hoạt động quanh năm, nhưng ba ngày Tết luôn là dịp đặc biệt nhất khi họ mang lời ca, tiếng hát để mua vui cho bà con. Với hệ thống giao thông đường bộ chưa phát triển, đường sông trở thành lối đi chính và nhà dân tập trung ven sông khiến ghe bầu trở thành phương tiện không thể thiếu của gánh hát. Trên chiếc ghe trọng tải vài tấn ấy, cả sân khấu, hậu đài, kho đạo cụ và nơi sinh hoạt của đoàn hát được tích hợp đầy đủ. Ghe bầu tấp vào xóm nào, không khí nơi đó xôn xao hẳn lên, từ già đến trẻ đi chơi Tết chỉ mong đến chiều tối để ra coi cải lương cho thỏa đam mê. Nghệ sĩ nhanh chóng dựng sân khấu ngay trên ghe để phục vụ khán giả, mang lại niềm vui, sự gắn bó cho cộng đồng. Làng nào ngày Tết mời được gánh hát tới diễn, coi như làng ấy có một cái Tết rất “bảnh” và khởi đầu cho một năm xôm tụ, vui tươi, rộn rã. Ngày nay, dù ghe bầu gánh hát không còn, nhưng hình ảnh ấy vẫn được tái hiện ở một số nơi như chợ nổi Cái Răng (Cần Thơ), nơi các nghệ sĩ trình diễn vọng cổ trên xuồng ba lá, đi dọc dòng sông, nhất là vào các dịp lễ hội và Tết. Ánh đèn chong, giọng ca mượt mà phản chiếu xuống dòng nước tạo nên một cảnh sắc nên thơ, lộng lẫy, đậm chất sông nước miền Tây. Hình ảnh ghe hát về làng đêm giao thừa, với tiếng ca ra bộ ngân vang trên mặt sông là ký ức sâu sắc trong lòng những người con miền Tây, mãi không phai mờ.
Sống với sông nước bao đời qua, người dân miền Tây cũng hào sảng, rộng rãi, nghĩa tình và điệu nghệ giống như tính cách của dòng sông. Chính vì lẽ đó mà Tết trên sông từ lâu đã trở thành một nép đẹp văn hóa đặc sắc mang đậm dấu ấn miền châu thổ đồng bằng trong lòng bao người. Một năm khởi đầu bằng mùa Xuân, mùa Xuân lại khởi đầu từ ba ngày Tết. Chính vì thế mà ba ngày Tết trên sông rộn rã là một tín hiệu, cũng là cách gửi gắm vào sông mơ ước một năm mưa thuận gió hòa, tôm cá đầy ghe, xuôi chèo mát mái và thuận buồm xuôi gió. Trên dòng sông, ba ngày Tết, người và những cánh hoa cùng khoe sắc thắm đầy ước vọng.
LÊ QUANG TRẠNG
Nguồn: Tạp chí VHNT số 594, tháng 1-2025