Văn hóa dân gian Việt Nam hình thành từ lâu đời, là một bộ phận của văn hóa dân tộc. Hoạt động của văn hóa dân gian hiện diện từ khắp các địa vực cư trú của người dân, bất kể quy mô: thôn, xóm, buôn, sóc, bản làng cho đến xã, huyện, tỉnh… Nội dung hoạt động của văn hóa dân gian vô cùng phong phú và đa dạng, từ phong tục tập quán, tín ngưỡng, lễ hội đến các loại hình nghệ thuật về điêu khắc, kiến trúc, âm nhạc, múa, ẩm thực, trang phục, trò chơi, trò diễn dân gian và các nghề thủ công truyền thống … Từ môi trường hoạt động văn hóa dân gian đã hình thành nên tâm hồn, nhân cách của con người từ chính cộng đồng ấy, trải qua thời gian từ tâm sức, nỗ lực của từng cộng đồng đã sáng tạo, hình thành nên các giá trị văn hóa mang tính biểu trưng trường tồn, có sức sống mãnh liệt trong đời sống của các làng quê thể hiện sắc thái đặc trưng vùng miền, góp phần làm giàu cho bản sắc văn hóa dân tộc.
Lễ Thu tế làng An Truyền, phường Mỹ Thượng, thành phố Huế
Các nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng: Văn hóa dân gian là nền tảng để xây dựng văn hóa dân tộc, từ cội nguồn văn hóa dân gian nảy sinh văn hóa dân tộc. Văn hóa dân gian của từng tộc người, từng địa vực cư trú đa số tương đồng về thể loại nhưng cũng có những khác biệt về nội dung thực hành. Trên địa bàn thành phố Huế, từ thế kỷ XIV, sau khi Chế Mân dùng hai châu Ô, Rí làm sính lễ cưới Huyền Trân công chúa, theo chủ trương của triều đình, một bộ phận người Việt từ khắp các địa phương miền Bắc đã thiên di vào tiếp quản vùng đất Ô, Rí và đổi tên hai châu này thành châu Thuận và châu Hóa. Trong quá trình xen canh, xen cư với người dân bản địa, văn hóa Việt đã có sự hòa nhập với văn hóa bản địa để hình thành nên một vùng văn hóa đặc trưng của vùng Thuận Hóa. Trải qua hàng trăm năm dưới thời quân chủ, ngoài việc thực hành tín ngưỡng, lễ hội của làng, xã theo lệ tục quy định (hàng năm hay cách quãng nhiều năm), họ còn tổ chức lễ hội và các trò chơi, trò diễn theo các dịp quốc lễ của triều đình như lễ đăng quang của tân vương, mừng thọ các bậc mẫu nghi, thiên tử … Sau khi triều Nguyễn hết sứ mệnh lịch sử các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc kéo dài đã làm cho hoạt động văn hóa truyền thống của người dân ở nhiều nơi bị ảnh hưởng. Những lễ hội, trò chơi, trò diễn dân gian dần dần bị mai một. Bên cạnh đó, nền kinh tế phát triển hội nhập sâu rộng với thế giới, sự bùng nổ về khoa học kỹ thuật, đời sống vật chất tinh thần của người dân ngày càng thay đổi. Xu thế hội nhập văn hóa trong thời kỳ mới đã tạo tâm lý trong một bộ phận người dân, nhất là lớp trẻ được tiếp cận với nền công nghiệp văn hóa hiện đại của thế giới nên dần lãng quên, xa rời văn hóa nghệ thuật dân tộc. Sự mai một về các loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian truyền thống hiện nay ở các địa phương là điều tất yếu.
Quang cảnh lễ Nghinh Thần ở miếu Đồng Miệu về đình làng An Truyền trong lễ Thu tế
Trong lịch sử mở mang bờ cõi về phía Nam, người dân không chỉ mở mang đất đai, phát triển kinh tế mà còn có những hoạt động lễ hội văn hóa truyền thống nhằm gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Cứ mỗi dịp Tết đến Xuân về, nhiều làng xã ở thành phố Huế lại tưng bừng mở hội vui xuân với nhiều trò chơi dân gian độc đáo, đặc biệt là các trò chơi đu ngày đầu năm với nhiều hoạt động hấp dẫn như: đu tiên, đu nhún, đu rút, đu giàn xay (còn gọi là đu ngóc), song hiện nay, hội đu xuân ở thành phố Huế hầu như chỉ còn trò đu nhún là phổ biến.
Làng Phò Trạch thuộc phường Phong Dinh, thành phố Huế là một trong những làng quê có lịch sử lâu đời của vùng Thuận Hóa. Sách Ô Châu cận lục soạn năm 1553 ghi làng này thuộc huyện Kim Trà, phủ Triệu Phong. Tác phẩm Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776 đã ghi về làng này như sau: “Xã Phù Trạch huyện Hương Trà dệt Lác làm chiếu tục gọi là chiếu đệm cũng dùng làm buồm, chiếu ấy cũng như chiếu Quảng Lãm xứ Kinh Bắc”. Phò Trạch từng là một trung tâm tổ chức lễ hội và các trò chơi dân gian của lớp cư dân sớm vùng Hóa Châu. Những địa danh như: Cồn Hội, Bến Trò, Bàn Cờ... là những nơi tổ chức lễ hội với các loại hình văn nghệ dân gian như: Hát Trò, Tập Chèo, tập chúng mục đồng, múa chạy chữ (Thiên Hạ, Thái, Bình); hát sắc bùa, múa phương tướng trong lễ tang... cùng với những trò chơi dân gian độc đáo như: Đu tiên, đu rút, đu nhún, đu giàng xay, đi cầu nước, bịt mắt bắt dê, bịt mắt đánh trống, leo cột mỡ, chơi cù, đấu vật, giật cờ... Đặc biệt, trong nghi lễ cúng tế làng còn có các loại hình nghệ thuật dân gian như: Múa dật, xướng thài, múa bông (ba vũ)...
Hội đồng tộc trưởng của làng An Truyền đang thực hiện nghi lễ Thu tế
Hát trò là bộ môn kịch hát dân gian, được tổ chức theo định kỳ 12 năm một lần vào dịp đầu xuân hoặc vào các dịp đặc biệt như: làng nhận sắc phong, có lệnh của triều đình mở hội mừng chiến thắng, mừng lễ đăng quang của các tân vương, mừng thọ của các vua chúa... Trò diễn xoay quanh các chủ đề “tứ dân, bách nghệ” như: Sĩ, Nông, Công, Thương – Ngư, Tiều, Canh, Mục.... từng mảng trò ấy lại có các nhân vật điển hình như: mảng Sĩ có vai ông thầy đồ, cậu học trò...; mảng Ngư có vai ông Chài, ông Rớ, ông Câu...; mảng Canh, Mục có vai ông nông phu, chú mục đồng... Hát trò ở Phò Trạch là một loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo của Việt Nam. Đây là một trò diễn về “tứ dân bách nghệ” hay còn gọi là “trình nghề”. Trò diễn với mục đích mô tả thực cảnh những nghề nghiệp phục vụ cho xã hội. Đồng thời, ca ngợi sản phẩm và tài năng khéo léo của chủ thể từng loại nghề. Trò diễn mang đậm tính chất khôi hài với những lời lẽ đối đáp sâu sắc, hóm hỉnh, vui tươi, luôn tạo tiếng cười cho người xem. Vì vậy, họ còn gọi đây là trò “Tứ dân chi nghiệp, bách nghệ khôi hài” tương tự như trò Trám ở Phú Thọ.
Văn hóa làng là hệ thống những giá trị hình thành từ lâu đời trong toàn bộ các hoạt động sản xuất vật chất và sinh hoạt văn hóa tinh thần của cộng đồng dân làng. Từ xa xưa, văn hóa dân gian luôn đóng vai trò cốt lõi trong hoạt động văn hóa tinh thần của làng xã. Lễ hội truyền thống cùng với trò chơi trò diễn dân gian là món ăn tinh thần không thể thiếu được đối với cộng đồng làng xã. Hoạt động văn hóa dân gian là cầu nối nhân văn tạo nên tính cố kết và sức mạnh cộng đồng của người dân trong làng và mối đoàn kết với các cộng đồng làng kế cận.
Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII của Đảng về “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã đề ra nhiệm vụ bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa. Nghị quyết nêu rõ: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc văn hóa dân tộc, cơ sở để sáng tạo thêm những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng và bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”. Thành phố Huế hiện nay vẫn còn nhiều lễ hội, trò chơi, trò diễn dân gian chưa được phục hồi và phát huy. Những năm qua, với sự nỗ lực của ngành Văn hóa, các nhà nghiên cứu, các trường đại học đã tiến hành nghiên cứu, sưu tầm về văn hóa dân gian trên địa bàn thành phố. Việc thống kê, ghi chép, nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài báo khoa học có giá trị để phục hồi và phát huy giá trị di sản văn hóa dân gian đang còn khiêm tốn. Vì vậy, ngành Văn hóa và các đơn vị liên quan tiếp tục nghiên cứu, bảo tồn các giá trị văn hóa trong tiến trình xây dựng môi trường văn hóa cơ sở hiện nay là việc làm cấp thiết, cần phải được quan tâm, đầu tư.
Thành phố Huế là điển hình về lĩnh vực văn hóa của cả nước và được định vị là trung tâm văn hóa lớn của khu vực Đông Nam Á vào năm 2030 và đang nỗ lực xây dựng thành phố trực thuộc Trung ương trên nền tảng bảo tồn, phát huy giá trị di sản Cố đô và bản sắc văn hóa Huế. Hướng đến những mục tiêu bảo tồn và phát huy những giá trị di sản văn hóa phi vật thể phong phú, lựa chọn một số khuôn mẫu, định chế, giá trị văn hóa cốt lõi trong quá khứ kết hợp với các giá trị văn hóa mới, nhịp điệu mới của xã hội hôm nay để xây dựng một môi trường văn hóa cơ sở lành mạnh, văn minh. Trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng, chúng ta không bắt chước và vĩnh cửu hóa cái quá khứ của truyền thống hôm qua mà biến đổi, tham khảo nó để tạo ra cái mới thích hợp với yêu cầu của hôm nay và ngày mai.
HẰNG NGUYỄN – NGUYỄN THẾ
Nguồn: Tạp chí VHNT số 616, tháng 8-2025