Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến cán bộ và công tác đào tạo cán bộ. Người coi “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” (1), “muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” và “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” (2). Đối với cán bộ văn hóa nghệ thuật, Người cũng dành sự quan tâm đặc biệt và định hướng đào tạo đội ngũ cán bộ văn hóa nghệ thuật có phẩm chất đạo đức cách mạng, có năng lực và trình độ chuyên môn để đảm đương nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa trong tiến trình phát triển đất nước. Bài viết nghiên cứu vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về cán bộ văn hóa nghệ thuật và công tác đào tạo đội ngũ cán bộ văn hóa nghệ thuật thời kỳ mới.
Ảnh: bvhttdl.gov.vn
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về đào tạo nguồn lực cán bộ văn hóa nghệ thuật trong xây dựng và phát triển văn hóa
Trong suốt quá trình lãnh đạo Cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng luôn quan tâm, chăm lo phát triển sự nghiệp văn hóa, sớm đưa ra định hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam phải được đặt ngang tầm với những nhiệm vụ quan trọng nhất của đất nước: “trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải chú ý đến, cần phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa” (3). Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ Nhất (1946), tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh về vấn đề văn hóa Việt Nam được đưa ra thật cụ thể và sâu sắc “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi, văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”. Văn hóa cách mạng có nhiệm vụ soi đường và dẫn dắt cho dân tộc đi trên con đường độc lập, tự cường và tự chủ. Tư tưởng này đã trở thành một nguyên tắc rất cơ bản, xuyên suốt quá trình xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, “Phải xúc tiến công tác văn hóa để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc. Phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc… để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng” (4).
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành nhiều tình cảm, dày công chăm lo, giáo dục, động viên, cổ vũ, đề cao vị trí của cán bộ văn hóa nghệ thuật. Năm 1952, trong bức thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa, Bác viết: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy… chiến sĩ nghệ thuật cần có lập trường vững vàng, tư tưởng đúng; phải đặt lợi ích của kháng chiến của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết” (5).
Để thực hiện sứ mệnh đó, việc đào tạo nguồn lực cán bộ văn hóa nghệ thuật được Đảng ta xác định trong toàn bộ hệ thống các Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc qua các nhiệm kỳ Đại hội, đặc biệt từ khi tiến hành công cuộc đổi mới. Tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã đặt ra một nhiệm vụ lớn trong sự nghiệp phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đó là “Đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tham mưu trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, nhất là cán bộ chủ chốt thực sự am hiểu về văn hóa, có phẩm chất, bản lĩnh, năng lực chuyên môn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ” (6). Đảng ta cũng yêu cầu “Rà soát toàn bộ hệ thống các trường đào tạo cán bộ văn hóa, văn nghệ, đổi mới và hiện đại hóa quy trình, nội dung, phương thức đào tạo để trong 5-10 năm tới khắc phục về cơ bản sự thiếu hụt về đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa” (7).
Cùng với định hướng về công tác cán bộ tại các Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc, Đảng ta đã ban hành các Nghị quyết chuyên biệt về xây dựng và phát triển văn hóa. Sau Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng ta đã tiếp tục ban hành 2 Nghị quyết chuyên đề về văn hóa: Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI. Trong nội dung 2 Nghị quyết quan trọng này, vấn đề đào tạo đội ngũ cán bộ văn hóa nghệ thuật được Đảng ta đặc biệt quan tâm, chú trọng, có định hướng rõ ràng, cụ thể, được kế thừa, bổ sung và hoàn thiện để phù hợp với tình hình phát triển mới của nền văn hóa nước nhà. Trong đó, đặt ra yêu cầu và nhiệm vụ “Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa. Coi trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, cán bộ làm công tác khoa học, chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở cơ sở... Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế…” (8). Năm 2021, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, trong bài phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, cần phải “Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hóa tương xứng với yêu cầu và nhiệm vụ phát triển văn hóa Việt Nam trong giai đoạn mới… (9).
Như vậy, từ Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943 đến nay, vị trí và vai trò của văn hóa luôn luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đặt ngang tầm với kinh tế, chính trị, xã hội. Nhận thức của Đảng về văn hóa ngày càng toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn. Đặc biệt, ngày nay văn hóa không chỉ là “động lực phát triển” mà quan trọng hơn “văn hóa là động lực phát triển bền vững đất nước”, trong đó, “đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng”. Vì vậy, xây dựng nguồn lực cán bộ văn hóa nghệ thuật đủ mạnh, có năng lực trình độ chuyên môn, có phẩm chất đạo đức, có tâm, có tầm, có trí và lực để đảm đương và hoàn thành nhiệm vụ quan trọng này là cần thiết và cấp bách.
2. Một số nét về công tác đào tạo cán bộ văn hóa nghệ thuật hiện nay
Nhận thức được vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ văn hóa nghệ thuật trong công cuộc đổi mới hiện nay, hệ thống các cơ sở đào tạo văn hóa nghệ thuật của cả nước đã được đầu tư, củng cố và ngày càng được chuẩn hóa. Từ việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng yêu cầu dạy và học đến xây dựng, hoàn thiện nội dung chương trình đào tạo các bậc học ngày càng được quan tâm. Bên cạnh chương trình đào tạo cơ bản, ngành còn thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên sâu về nghiệp vụ, trình độ tin học, ngoại ngữ, chính trị… nhằm trang bị thêm kiến thức và kỹ năng quản lý, lãnh đạo, tổ chức hoạt động chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, đáp ứng yêu cầu hoạt động thực tiễn trong thời kỳ mới. Bộ VHTTDL đã triển khai xây dựng và thực hiện nhiều chiến lược, quy hoạch, đề án đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ. Bộ đã xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ ban hành một số đề án đào tạo, bồi dưỡng tài năng và nguồn nhân lực văn hóa, nghệ thuật, thể thao, tiêu biểu có: “Đề án Xây dựng đội ngũ trí thức ngành văn hóa, thể thao và du lịch đến năm 2020, tầm nhìn 2030; Đề án Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo các trường văn hóa, nghệ thuật; Đề án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên trình độ cao trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật giai đoạn 2010-2020; Đề án Đào tạo, bồi dưỡng và phát triển tài năng trẻ lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; Đề án Tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng tài năng thể thao và nhân lực thể thao thành tích cao đến năm 2035; Đề án Đào tạo tài năng văn hóa nghệ thuật giai đoạn 2016-2025, tầm nhìn đến năm 2030; Đề án Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực văn hóa nghệ thuật ở nước ngoài đến năm 2030…” (10).
Bên cạnh đó, công tác quy hoạch, nâng cấp mạng lưới các trường văn hóa nghệ thuật được chú trọng, một số trường đã được nâng cấp từ trung cấp lên bậc cao đẳng, đại học, học viện, các trường sơ cấp lên trung cấp. Hiện, cả nước có 54 cơ sở đào tạo văn hóa nghệ thuật chuyên nghiệp ở các trình độ khác nhau: trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học. Tính đến năm 2020, riêng Bộ VHTTDL quản lý có 29 cơ sở đào tạo văn hóa nghệ thuật (gồm có 2 viện nghiên cứu (có đào tạo tiến sĩ), 13 trường đại học/ học viện; 13 trường cao đẳng/ cao đẳng nghề; 2 trường trung cấp và 1 trường Cán bộ quản lý VHTTDL. Số lượng cán bộ, giáo viên, giảng viên các cơ sở đào tạo trực thuộc Bộ là 3.417 người (trong số đó: cán bộ quản lý có 734 người, giảng viên 1.793 người, giáo viên 177 người, đối tượng khác là 965 người. Số lượng tuyển sinh là 11.191 học viên, sinh viên) (11).
Rõ ràng, công tác đào tạo nguồn cán bộ văn hóa nghệ thuật đã và đang được quan tâm cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất. Số cán bộ được đào tạo bài bản, đáp ứng được yêu cầu về trình độ chuyên môn, có tâm, có năng lực và nhiệt huyết để quản lý và tổ chức, hướng dẫn hoạt động văn hóa nghệ thuật ngày càng tăng. Đặc biệt, một thế hệ cán bộ trẻ của kỷ nguyên số, năng động, tự tin, dám nghĩ, dám làm, nhiều người được bổ nhiệm giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt cấp Vụ, Cục và tương đương trở lên.
Tuy vậy, trên thực tế đội ngũ cán bộ văn hóa nghệ thuật vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, như: tình trạng hẫng hụt, đứt gãy thế hệ cán bộ kế cận, nhất là cán bộ quản lý, cán bộ có trình độ chuyên môn cao, đội ngũ chuyên gia văn hóa nghệ thuật có bề dày kinh nghiệm thực tiễn và tư duy sáng tác. Chất lượng, năng lực cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở chưa đồng đều, chưa tương xứng nhiệm vụ được giao. Tính năng động, chủ động, sáng tạo của một bộ phận công chức văn hóa nghệ thuật còn hạn chế, trình độ năng lực thực tiễn và phương pháp công tác chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chuyên môn, đặc biệt là cán bộ hoạt động trong lĩnh vực chuyên ngành về nghệ thuật... Do vậy, công tác quản lý và hoạt động văn hóa nghệ thuật còn chưa đạt hiệu quả như mong muốn.
Nguyên nhân của tình trạng trên thì có nhiều, song, có thể thấy một số nguyên nhân chủ yếu như: mức đầu tư ngân sách cho văn hóa còn thấp; chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ làm công tác văn hóa nghệ thuật còn nhiều bất hợp lý; nguồn cán bộ văn hóa, nhất là cán bộ văn hóa cơ sở còn nhiều biến động do điều động, luân chuyển; công tác đào tạo còn bất cập so với tốc độ phát triển văn hóa và yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn… Một số cơ sở đào tạo văn hóa nghệ thuật còn khó khăn trong tuyển sinh đầu vào do yêu cầu mang đặc thù chuyên môn cao; việc đào tạo và học những ngành này lại khá nhọc nhằn, lại tốn kém đòi hỏi người học phải có năng khiếu và đam mê thực sự, nhưng đầu ra không đảm bảo, tuổi nghề hoạt động nghệ thuật thấp, lương và thu nhập không ổn định, phần lớn không đảm bảo cuộc sống nên thiếu hấp dẫn người học khiến các cơ sở đào tạo luôn hụt hẫng về chỉ tiêu tuyển sinh và đào tạo. Trong khi đó, mặc dù nhận thức của toàn xã hội về văn hóa và cán bộ văn hóa nghệ thuật đã được nâng cao, nhưng chưa toàn diện và thấu đáo, đôi khi còn coi cán bộ văn hóa chỉ là “cờ, đèn, kèn, trống…”. Vì vậy, việc đào tạo, củng cố, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ văn hóa nghệ thuật đang là vấn đề cấp bách ở nhiều địa phương trong cả nước. Để “văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”, công tác đào tạo cán bộ văn hóa nghệ thuật cần phải được thực hiện bằng những giải pháp rất căn cơ, vừa cụ thể, vừa thiết thực.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ văn hóa nghệ thuật đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển văn hóa, con người trong thời kỳ mới
Một là, nâng cao nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp và toàn xã hội về vị trí, vai trò của nguồn lực cán bộ văn hóa nghệ thuật
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cộng đồng, xã hội về vai trò vị trí, của văn hóa nghệ thuật và cán bộ làm văn hóa nghệ thuật. Tổ chức thường xuyên các hoạt động giao lưu, quảng bá, các cuộc thi tìm hiểu về văn hóa nghệ thuật trong cộng đồng, các trường học, các cơ quan, đơn vị nhà nước, các doanh nghiệp… Kết hợp giữa giáo dục, nâng cao nhận thức về giá trị của văn hóa nghệ thuật trong gia đình, nhà trường và xã hội. Từ đó, xác định rõ vị trí, vai trò của cán bộ văn hóa nghệ thuật để kịp thời thể chế hóa đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng thành luật pháp và các chính sách cụ thể, khả thi về xây dựng và phát triển nguồn lực cán bộ văn hóa nghệ thuật các cấp tương xứng với sự nghiệp phát triển văn hóa.
Hai là, chú trọng không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo nguồn lực cán bộ văn hóa nghệ thuật các cấp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa
Tiến hành rà soát toàn bộ đội ngũ cán bộ văn hóa nghệ thuật các cấp, chủ động dự báo nhu cầu sử dụng cán bộ để đào tạo, chuẩn hóa cán bộ kịp thời theo tiêu chí chức danh nghề nghiệp và vị trí việc làm. Coi trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, cán bộ làm công tác khoa học, chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở cơ sở. Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế. Công tác đào tạo phải gắn liền với nhu cầu sử dụng cán bộ, tạo cơ chế chính sách đãi ngộ hợp lý để thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành và các địa phương trong cả nước.
Ba là, xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách phù hợp với tính chất đặc thù của hoạt động văn hóa, nghệ thuật
Đổi mới chính sách đãi ngộ, sử dụng hợp lý đối với đội ngũ văn nghệ sĩ và những người làm công tác văn hóa, đặc biệt là cán bộ văn hóa cơ sở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Tôn vinh tài năng và cống hiến của họ cho sự phát triển văn hóa nghệ thuật nước nhà.
Bốn là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ văn hóa nghệ thuật chủ động học tập, rèn luyện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới
Cán bộ văn hóa nghệ thuật các cấp phải thường xuyên chủ động cập nhật thông tin, nắm bắt kịp thời các chủ trương, định hướng của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về hoạt động văn hóa, nghệ thuật. Cán bộ văn hóa nghệ thuật phải không ngừng tự phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, lối sống văn hóa, có ý thức cầu thị tiến bộ, trau dồi kỹ năng nghề nghiệp, khiêm tốn học hỏi nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, nâng cao kiến thức quản lý nhà nước và phương pháp tổ chức hoạt động thực tiễn để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác trong tình hình mới. Mỗi cán bộ văn hóa nghệ thuật cũng đồng thời là nhà sư phạm - người làm công tác giáo dục ngoài nhà trường, biết sử dụng các phương tiện văn hóa nghệ thuật để chuyển tải những nội dung nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước tới quần chúng nhân dân ở cơ sở.
Để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, là mục tiêu, là động lực của sự phát triển bền vững, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn lực cán bộ văn hóa, nghệ thuật, coi đó là một nhiệm vụ quan trọng, rất cần thiết và cấp thiết. “Có cán bộ tốt, việc gì cũng xong. Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Phát huy tốt vai trò, phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ văn hóa nghệ thuật sẽ góp phần đắc lực trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong hiện tại và tương lai.
_______________________
1, 2. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, xuất bản lần thứ 3, Hà Nội, 2011, tr.309, 280.
3. Hồ Chí Minh, Văn học nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1978, tr.345.
4, 5. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.173, 368-369.
6, 7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.146, 147.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.60-61.
9. Nguyễn Phú Trọng, Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Báo Nhân dân, số 24136, 25-11-2021, tr.2.
10, 11. Dẫn theo: Ban Tuyên giáo Trung ương, Báo cáo Kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc; Xây dựng, phát triển văn hóa sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước; Các định hướng, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển văn hóa, con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Báo cáo ngày 22-11-2021 được trình bày tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24-11-2021, Hà Nội.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ VHTTDL, Tổng kết lý luận và thực tiễn 30 năm đổi mới về “phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam” (1986-2016), Tài liệu Tọa đàm khoa học ngày 27-3-2014, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
4. Đề cương về văn hóa Việt Nam chặng đường 60 năm, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2004.
TS HOÀNG THỊ BÌNH
Nguồn: Tạp chí VHNT số 590, tháng 12-2024