Vai trò của tiêu dùng văn hóa trong bối cảnh hiện nay

Tiêu dùng văn hóa (TDVH) là một phần quan trọng trong đời sống của cá nhân. Bài viết chỉ ra những vai trò của TDVH đối với con người trong bối cảnh hiện nay trên các phương diện như đáp ứng nhu cầu giải trí, định hướng lối sống và kiến tạo bản sắc, nâng cao năng lực thưởng thức và sáng tạo nghệ thuật của cá nhân cũng như thúc đẩy quá trình sản xuất văn hóa.

1. Khái niệm TDVH

Về TDVH, một số nghiên cứu trước đây đã đưa ra những cách hiểu, những khái niệm cụ thể. Lê Như Hoa cho rằng: “TDVH tức là dùng những sản phẩm văn hóa (được sản xuất ra trong lĩnh vực tinh thần) vào sinh hoạt hằng ngày, phục vụ cho sinh hoạt cá nhân, gia đình, cộng đồng, vào mục đích văn hóa nhằm hoàn thiện nhân cách người, gia đình, cộng đồng” (1). Nguyễn Tiến Mạnh coi tiêu dùng là một trong bốn giai đoạn quan trọng của quy trình sản xuất/ sáng tạo - phân phối - bảo quản - tiêu thụ sản phẩm văn hóa. Theo ông, “TDVH là một khái niệm chỉ một loại tiêu dùng mà ở đó, thông qua việc dùng các sản phẩm văn hóa hoặc dịch vụ văn hóa mà nhu cầu tinh thần của con người được thỏa mãn, đáp ứng” (2). Khi xem TDVH là một phần trong đời sống văn hóa của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đặng Thị Thúy Hằng coi TDVH là “việc sử dụng những sản phẩm văn hóa để đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu tinh thần của cư dân hiện nay, và việc tiêu dùng sản phẩm văn hóa này cũng chỉ đề cập đến tiêu dùng sản phẩm tinh thần, gắn liền với sản phẩm tinh thần là công cụ phương tiện tiêu dùng và phương thức TDVH” (3). Sản phẩm văn hóa được đề cập trong định nghĩa này bao gồm các chương trình truyền hình, phim ảnh, phần mềm trò chơi điện tử, sách báo, tạp chí. Ngoài ra, tác giả cũng chỉ ra rằng, tiêu dùng sản phẩm văn hóa còn liên quan đến các phương tiện phục vụ tiêu dùng như ti vi, đầu đĩa, máy tính và hệ thống thiết chế văn hóa như thư viện, rạp chiếu phim, nhà hát…

Đặng Thị Thu Hương khi nghiên cứu cho rằng, TDVH là khái niệm có nội dung rất rộng, đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau như công cụ, phương tiện tiêu dùng, phương thức tiêu dùng, TDVH “là một khái niệm chỉ về các loại sản phẩm tinh thần và dịch vụ văn hóa tinh thần được người tiêu dùng đánh giá cao, được sở hữu, được tiêu dùng, thưởng thức và được sử dụng” (4). Tác giả xem TDVH là một dạng hoạt động trong thực tiễn và hoạt động TDVH của con người cũng chính là hoạt động sáng tạo văn hóa. Như vậy, dù khác biệt về cách diễn đạt, các quan niệm về TDVH ở trên cơ bản có sự kế thừa và thống nhất khi đều chỉ ra rằng TDVH chính là sử dụng những sản phẩm văn hóa, dịch vụ văn hóa để đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người.

TDVH gắn với các sản phẩm văn hóa, dịch vụ văn hóa. Sản phẩm văn hóa cũng giống như sản phẩm thông thường khác, đều là kết quả của quá trình sản xuất. Tuy nhiên đây là loại sản phẩm đặc biệt vì chứa đựng giá trị lịch sử, giá trị văn hóa, giá trị thẩm mỹ, giá trị biểu tượng. Trong khi sản phẩm thông thường đáp ứng nhu cầu tiêu dùng vật chất, sản phẩm văn hóa hướng tới thỏa mãn nhu cầu tinh thần cho con người. Sản phẩm thông thường có giá trị sử dụng và giá trị trao đổi trong khi sản phẩm văn hóa còn có giá trị biểu tượng, chứa đựng ý tưởng, góp phần kiến tạo lối sống và bản sắc cá nhân. Sản phẩm văn hóa mang tính phi vật thể. Dù tồn tại dưới vỏ vật chất nhất định (tác phẩm văn học tồn tại dưới dạng cuốn sách, tác phẩm điện ảnh thể hiện dưới dạng cuốn phim, tác phẩm hội họa hiện hữu trong một khung tranh…), khi tiêu dùng các sản phẩm văn hóa, khán giả có thể có hoặc không sở hữu một vật thể vật chất mà quan trọng nhất là được “sở hữu” nội dung, ý tưởng, thông điệp, tình cảm… của tác phẩm. Hơn nữa, nếu như các sản phẩm hàng hóa thông thường thể hiện rõ tính hữu ích (sử dụng cho một mục đích cụ thể, như ô tô để di chuyển, áo quần để mặc, tủ lạnh để lưu trữ thức ăn…), thì sản phẩm văn hóa lại khó đánh giá, đo đếm được tính hữu ích vì nó có thể phù hợp, giàu giá trị với người này, nhưng rất có thể lại không nhiều ý nghĩa với người khác. Nói cách khác, mỗi cá nhân có thị hiếu thẩm mỹ riêng, tầm đón nhận riêng, nên giá trị cụ thể của sản phẩm văn hóa thường khó xác định hơn và khác biệt giữa các cá nhân. Trong bối cảnh hiện nay, nhờ sự hỗ trợ của công nghệ cũng như các quốc gia trên thế giới đều đang thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa, các sản phẩm văn hóa được tạo ra hàng loạt nhằm mục tiêu giải trí, nặng tính đại chúng và tính thương mại. Các sản phẩm văn hóa có phạm vi rộng, bao gồm sản phẩm của nhiều lĩnh vực khác nhau: điện ảnh, âm nhạc, văn học, quảng cáo, chương trình truyền hình, trò chơi điện tử…

Như vậy, có thể hiểu, TDVH là việc sử dụng các sản phẩm văn hóa để thỏa mãn nhu cầu tinh thần cho cá nhân. TDVH nhấn mạnh tính chủ động của các cá nhân trong việc tìm kiếm, lựa chọn, chi trả, hưởng thụ, đánh giá các sản phẩm văn hóa. TDVH là một dạng thức tiêu dùng đặc biệt, có nhiều điểm khác biệt so với các hình thức tiêu dùng sản phẩm vật chất khác, trong đó nhấn mạnh tính tâm lý. TDVH có tính tầng bậc, ở đó giá trị của sản phẩm văn hóa có thể khác biệt giữa các nhóm chủ thể, phụ thuộc vào sự cảm nhận của mỗi cá nhân. Giá trị của tác phẩm vì thế không được “sinh ra” ngay từ ban đầu mà được khám phá, mở rộng bởi chính chủ thể tiêu dùng.

2. Bối cảnh xã hội hiện nay và những tác động đến TDVH

TDVH trong bối cảnh hiện nay chịu sự chi phối của nhiều yếu tố. Bối cảnh toàn cầu hóa mang đến nhiều cơ hội cho người dân được hưởng thụ các sản phẩm văn hóa không giới hạn về không gian, thời gian. Toàn cầu hóa cùng với đó là sự hỗ trợ của công nghệ cũng khiến cho quá trình phân phối và tiêu thụ văn hóa trở nên thuận tiện, dễ dàng hơn. Khán giả trên toàn thế giới có thể cùng chung nhịp cảm xúc, rung động, thổn thức với một bộ phim mới ra rạp, một cuốn sách mới xuất bản, một sản phẩm âm nhạc vừa được cập nhật trên YouTube… từ đó tạo nên những “cơn sốt”, những xu hướng (trend) trên toàn cầu - những thứ được xem như là động lực và cũng là thước đo thành công của công nghiệp văn hóa. Điều này khác với trước đây, vốn thường có một độ trễ nhất định về thời gian để tác phẩm ra mắt ở quốc gia này có thể đến được với khán giả trên toàn thế giới. Đời sống vật chất của người dân trong nhiều năm qua cũng được cải thiện nhanh chóng, thời gian rỗi nhiều hơn từ đó gia tăng nhu cầu TDVH. Hơn nữa, hoạt động TDVH còn bị chi phối bởi sự phát triển của internet và truyền thông theo những cách khác nhau như truyền thông lan tỏa thông tin về sản phẩm văn hóa ở phạm vi rộng hơn, thúc đẩy tính trào lưu của TDVH theo cách tạo ra những trải nghiệm tập thể, cảm giác hiện đại, thức thời của những người cập nhật với xu hướng.

Internet và mạng xã hội làm gia tăng về lượng và đa dạng về nguồn tiếp cận sản phẩm văn hóa cho người dân. Theo Báo cáo Việt Nam Digital 2021 do We are social Hootsuite thống kê, tính đến thời điểm tháng 1-2021, Việt Nam đã có 68,72 triệu người dùng internet trên tổng số 97,8 triệu người (5). Với tỷ lệ sử dụng internet là 70,3%, Việt Nam là một trong những quốc gia có lượng người dùng internet cao trên toàn thế giới. Tại các đô thị, số lượng các quán cà phê internet tăng theo cấp số nhân. Những năm gần đây, việc sở hữu các thiết bị công nghệ nhỏ gọn, có kết nối internet như điện thoại thông minh, máy tính bảng… của nhiều người khiến “thế giới trong tầm tay” - câu khẩu hiệu nổi tiếng của Viettel, nhà mạng giữ thị phần lớn nhất trên thị trường dịch vụ viễn thông Việt Nam - trở nên dễ dàng hơn bao giờ. Có tới 154,4 triệu kết nối di động tại Việt Nam vào tháng 1-2021, có 72 triệu người dùng mạng xã hội trên toàn quốc, tương đương với 73,7% tổng dân số. Những con số thống kê này là minh chứng rõ nhất cho việc internet và đặc biệt là mạng xã hội đang trở thành phương tiện thông tin và truyền thông phổ biến tại Việt Nam. Internet tạo ra những khả thể cho TDVH với nhiều nhóm người ở nhiều vùng, miền khác nhau. Cơ hội tiếp cận với nghệ thuật trở nên dễ dàng và bình đẳng thông qua các thiết bị nhỏ gọn, có thể “đem cả rạp chiếu đến tận nhà” với các nền tảng như Netflix, Spotify… Internet làm xuất hiện nhiều hình thức TDVH mới như nghe nhạc trực tuyến, xem các video ngắn trên các nền tảng truyền thông mới như TikTok, YouTube… Internet đang xoay chuyển và thay đổi thói quen giải trí bên cạnh những thói quen cũ như xem truyền hình, đọc sách báo giấy, xem phim tại rạp chiếu… Các quyết định tiêu dùng, các hình thức chi trả, cách thức chi trả cho các sản phẩm văn hóa cũng đang có nhiều thay đổi theo hướng tiện lợi, hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới.

Cũng chính nhờ internet mà khoảng cách giữa độc giả, khán giả, thính giả với tác giả, giữa người tiêu dùng với người sản xuất được rút ngắn và thu hẹp không kể không gian và thời gian. Sản phẩm nghệ thuật khi được phân phối trên các nền tảng mạng xã hội sẽ ngay lập tức được khán giả tiếp cận, đón nhận, thụ hưởng. Những tương tác tức thời như lượt thích, lượt chia sẻ, bình luận, ủng hộ, theo dõi giúp cho nhà sản xuất biết được phản hồi của khán giả về sản phẩm. Người tiêu dùng cũng vì thế có thêm nhiều thông tin hơn như các câu chuyện, giai thoại xoay quanh quá trình làm ra tác phẩm, về nhân vật trong tác phẩm. Internet còn mang đến cơ hội cho nhiều người trở thành những người sản xuất sản phẩm văn hóa. Nhiều người đã tự sản xuất, tự phổ biến những bài viết, video ngắn ở nhiều lĩnh vực khác nhau.

3. Vai trò của TDVH

TDVH và sự đáp ứng nhu cầu giải trí

Từ góc nhìn xã hội học, tác giả Đoàn Văn Chúc lý giải nhu cầu giải trí qua các khái niệm “thì giờ rỗi”, “hoạt động rỗi”. Tác giả cho rằng đời sống con người xoay quanh bốn loại hoạt động cơ bản: hoạt động lao động sản xuất để đảm bảo sự sống còn cho cá nhân và xã hội (nghĩa vụ xã hội), hoạt động thuộc các quan hệ cá nhân trong đời sống xã hội (bổn phận xã hội), hoạt động duy trì bảo vệ đời sống vật chất cá nhân để đáp ứng nhu cầu cá nhân và những hoạt động thuộc đời sống tinh thần, đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người (6). Giải trí là dạng hoạt động cuối cùng, mang tính chất tự do hơn các hoạt động trên do con người có quyền được lựa chọn. Nhu cầu giải trí mang tính chất tự do, khác với các hoạt động khác mang tính bắt buộc; có tính tự nguyện hơn là nghĩa vụ, bổn phận; không mang tính vụ lợi như các hoạt động khác. Chủ thể được quyền chủ động lựa chọn các hoạt động nhằm giải tỏa sự căng thẳng, giúp con người thư giãn và vươn tới sự rung cảm về thẩm mỹ. Hoạt động giải trí vì vậy là điều kiện cần thiết để con người phát triển toàn diện về trí tuệ, thể chất và thẩm mỹ.

Theo Đinh Thị Vân Chi, nhu cầu giải trí được tiếp cận nghiên cứu dưới góc nhìn xã hội học văn hóa. Tác giả đã phát triển và hoàn thiện khái niệm nhu cầu giải trí, xây dựng một quan niệm khoa học về giải trí, coi “giải trí là hoạt động trong thời gian rỗi, nhằm giải tỏa căng thẳng trí não, tạo sự hứng thú cho con người và điều kiện phát triển con người một cách toàn diện về trí tuệ, thể lực và thẩm mỹ”. Và nhu cầu giải trí được định nghĩa là “nhu cầu hoạt động trong thời gian rỗi nhằm giải tỏa sự căng thẳng trí não, phát triển con người một cách toàn diện về trí tuệ, thể lực và thẩm mỹ” (7). Nhu cầu giải trí là nhu cầu phát triển toàn diện bởi chỉ trong hoạt động giải trí, con người mới bộc lộ và phát huy hết những tiềm năng vốn có mà trong hoạt động lao động họ không có điều kiện để bộc lộ. Nhu cầu giải trí cũng là một bộ phận quan trọng của nhu cầu tinh thần con người, nhằm tái tạo sức lao động, thỏa mãn sức sáng tạo cũng như đam mê, sở thích của cá nhân.

Có nhiều hình thức giải trí khác nhau mà phụ thuộc vào điều kiện, năng lực và sở thích cá nhân, mỗi chủ thể đưa ra những lựa chọn khác nhau. Nghiên cứu về văn hóa giải trí của Đinh Việt Hà, dựa trên các cách mà giới trẻ thực hành giải trí đã chia ra thành: giải trí nghe nhìn (như xem ti vi, xem phim chiếu rạp, đọc sách, báo, tạp chí, thưởng thức các loại hình nghệ thuật), giải trí vận động và trải nghiệm (đi phượt, các loại hình vận động mới như nhảy zumba, dancesport, hip hop, parkour…), giải trí bằng các hoạt động tiêu dùng khác (qua ẩm thực, mua sắm), giải trí online qua việc truy cập vào mạng xã hội, các trang như Facebook, YouTube… và các thực hành giải trí đám đông như hiện tượng các fanclub (hâm mộ thần tượng) (8). Mỗi loại hình giải trí có những ưu thế khác nhau, đáp ứng yêu cầu, sở thích đa dạng của con người nhưng trong số đó giải trí thông qua TDVH (giải trí nghe nhìn) được xem là một hình thức khá phổ biến, phù hợp với đa số hơn cả vì tính dễ tiếp cận và với chi phí vừa phải. Trong khi các hình thức giải trí khác cần đầu tư về thiết bị, phương tiện và nhiều chi phí khác thì tiêu dùng các sản phẩm văn hóa như đọc sách, báo, nghe nhạc, xem phim… không quá tốn kém, phần lớn đều có thể chi trả để tiếp cận được.

Ở đây, xuất phát từ mối quan hệ giữa giải trí và TDVH như hai yếu tố song hành cùng nhau, là tác nhân ảnh hưởng qua lại trong đó nhu cầu giải trí thúc đẩy TDVH và ngược lại việc sử dụng các sản phẩm văn hóa là để thỏa mãn nhu cầu giải trí. Việc tiêu dùng các sản phẩm văn hóa ngoài việc để vui, để thoải mái và thư giãn sau những áp lực công việc, học hành, giảm căng thẳng và suy nhược cho cơ thể, cải thiện chất lượng đời sống thì ở một góc nhìn khác, TDVH còn thực hiện chức năng nhận thức, chức năng giáo dục.

TDVH nâng cao năng lực thưởng thức nghệ thuật và năng lực sáng tạo

Có mối tương quan tỷ lệ thuận giữa năng lực thưởng thức nghệ thuật và năng lực sáng tạo với mức độ thường xuyên tiếp xúc, thưởng thức và trải nghiệm tác phẩm nghệ thuật. Năng lực thưởng thức nghệ thuật được hiểu là khả năng cảm nhận, thụ hưởng, rung động, phát hiện được cái hay cái đẹp của tác phẩm. Năng lực này thường sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như kinh nghiệm, vốn sống, tuổi tác, sự tinh nhạy của các giác quan, sự nhạy cảm của mỗi cá nhân, độ am hiểu về đặc trưng ngôn ngữ của từng loại hình nghệ thuật… Ngoài những yếu tố có tính nền tảng, việc tiếp xúc thường xuyên với các sản phẩm văn hóa nghệ thuật cũng khiến sự tinh nhạy trong cảm thụ có cơ hội được bồi đắp, rèn giũa. Việc học hay được trang bị kiến thức lý thuyết về nghệ thuật không thể thay thế cho việc tự cảm thụ tác phẩm nghệ thuật, những hiểu biết lý trí không tạo ra những rung động, cảm xúc như khi tiếp xúc với tác phẩm, dù rằng nếu có nền tảng hiểu biết thì những cảm xúc sẽ có chiều sâu hơn thay vì chỉ là cảm tính. Chỉ có việc “nghe” nhạc, “đọc” sách, “xem” tranh… mới khiến con người thổn thức, rung động từ đó liên tưởng, suy ngẫm về nhiều vấn đề trong cuộc sống mà tác phẩm gợi nên. Vì vậy, có thể nói tiêu dùng các sản phẩm văn hóa chính là cách quan trọng nhất để rèn luyện, thúc đẩy năng lực thưởng thức nghệ thuật.

John Storey đã từng xem việc đọc không phải chỉ là TDVH, tiếp nhận văn hóa mà còn là quá trình sản xuất khi mà quá trình đọc không thể tách rời và liên tục kết nối với bối cảnh đời sống mà người đọc thuộc về (9). Điều này cũng là dễ hiểu vì ngữ nghĩa câu chữ trong tác phẩm không được sinh ra ngay từ đầu mà sản sinh cùng với quá trình đọc, liên tưởng, ngẫm nghĩ của người đọc.

Năng lực sáng tạo, ở một mức cao hơn, đòi hỏi nhiều kiến thức, kỹ năng của con người nhưng cũng phải dựa trên năng lực thưởng thức, hay rộng ra là mức độ TDVH. Từ góc độ nghệ thuật, sáng tạo với nghĩa là hiện thực hóa suy nghĩ, cảm xúc, ý tưởng thành tác phẩm trên cơ sở sử dụng những chất liệu cụ thể cũng cần có vốn hiểu biết, trải nghiệm từ đời sống cũng như từ việc cảm nhận tác phẩm nghệ thuật. Việc thường xuyên tiếp cận, thưởng thức các sản phẩm văn hóa như một cách làm đầy vốn sống, rèn luyện khả năng cảm thụ, tư duy sáng tác. Sáng tạo nghệ thuật đòi hỏi sự “sáng tạo”, phá cách, mới mẻ, đột phá… nhưng những thứ đó cũng chỉ có được dựa trên nền tảng sâu rộng kiến thức, cảm xúc mà người sáng tạo tri nhận được qua việc thưởng thức rộng rãi và phong phú các sản phẩm văn hóa nghệ thuật khác.

TDVH định hướng lối sống và kiến tạo bản sắc

TDVH là một phần không thể thiếu của xã hội hiện đại, góp phần kiến tạo nên đời sống và bản sắc. Bản sắc cá nhân, bản sắc nhóm bắt đầu được nói đến nhiều sau thời kỳ đổi mới. Bối cảnh đương đại cũng tạo cơ hội cho con người khẳng định cái tôi cá nhân nhiều hơn. TDVH là một trong những nhân tố thúc đẩy quá trình tự ý thức về bản ngã của cá nhân. Khi thưởng thức sản phẩm văn hóa, con người có cơ hội được tiếp xúc với những hoàn cảnh, những câu chuyện của người khác, được đặt mình trong hoàn cảnh của người khác để nghĩ và để hiểu về con người, qua đó cũng hiểu thêm về bản thân mình. Trong nhiều trường hợp, thói quen tiêu dùng các sản phẩm văn hóa nghệ thuật một cách thường xuyên đang tạo nên nếp nghĩ coi trọng đời sống tinh thần, xem đây là một mảng màu quan trọng để vẽ nên bức tranh về cá nhân mình. Con người tìm thấy trong âm nhạc người bạn đồng hành, chia sẻ với mình trong cuộc sống, nhận ra nhiều kinh nghiệm sống khi xem phim, đọc sách. Tiếp cận với các sản phẩm văn hóa không chỉ là hoạt động mang tính thêm vào hay “phụ họa” cho đời sống đỡ nhàm chán mà dần trở thành một thói quen, một nhu cầu cần thiết

TDVH của các thế hệ đang tạo ra, xây dựng và lưu truyền bản sắc cá nhân, bản sắc nhóm mà họ thuộc về. Nếu như việc chọn lựa, sử dụng một sản phẩm vật chất là phương cách để người tiêu dùng định nghĩa về cá nhân họ thì việc tiêu dùng các sản phẩm văn hóa, ở một chừng mực nào đó cũng đang định hình lối sống và góp phần xây dựng, củng cố cái tôi cá nhân. Người tiêu dùng cũng đang xác định và trở thành thành viên của những “cộng đồng tưởng tượng” thông qua việc cùng tiêu dùng một sản phẩm văn hóa, cùng đam mê hay hâm mộ một thần tượng, một nghệ sĩ nào đó. Cộng đồng người hâm mộ được thiết lập nên và duy trì mối quan hệ khi họ cùng ngưỡng mộ một ngôi sao, một thần tượng, có cùng các hành vi, phong cách của cộng đồng mà họ cảm thấy mình thuộc về. Nhiều người xác định vẻ đẹp được lý tưởng hóa bởi cộng đồng của mình xây dựng và tìm cách tiêu dùng các sản phẩm mang ý nghĩa chung về vẻ đẹp lý tưởng hóa này.

TDVH thúc đẩy quá trình sản xuất văn hóa

TDVH là khâu cuối cùng của một quy trình vận hành các ngành công nghiệp văn hóa bao gồm 4 giai đoạn: sáng tạo/ sản xuất - phân phối - tiêu dùng nhưng lại cũng là mở đầu cho một quy trình khác. TDVH sẽ thúc đẩy hoạt động tái sản xuất sản phẩm văn hóa, vì thế phát triển người tiêu dùng hay phát triển khán giả có thể xem là yếu tố then chốt để phát triển công nghiệp văn hóa. Hơn nữa, các ngành công nghiệp văn hóa sản xuất theo quy luật cung - cầu, trong đó bên cầu chính là khán giả, đối tượng mà các ngành công nghiệp văn hóa hướng đến. Khi nhu cầu hưởng thụ nghệ thuật tăng lên đồng nghĩa với việc các ngành công nghiệp văn hóa có cơ hội phát triển và mở rộng sáng tạo các sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Ngược lại, khi lượng khán giả giảm sút, khán giả không quan tâm đến nghệ thuật, tác phẩm làm ra nhưng không có người tiêu thụ thì các tổ chức văn hóa nghệ thuật sẽ gặp khó khăn. Chính khán giả là người quyết định sự tồn vong của các ngành công nghiệp văn hóa thông qua việc bỏ tiền ra mua sản phẩm, giúp doanh nghiệp thu hồi vốn, có lợi nhuận, để nghệ sĩ sống được với nghề và có kinh phí tái đầu tư vào các sản phẩm nghệ thuật khác. Hơn nữa, theo Throsby, tiêu dùng có liên quan đến nhận thức của người dùng về giá trị, tạo nên giá trị đa dạng và có thể thay đổi (10). Người tiêu dùng có thể gia tăng thêm giá trị cho sản phẩm văn hóa và quyết định việc sản phẩm có tiếp tục hiện diện trong đời sống nữa hay không. Người tiêu dùng cũng có thể hỗ trợ quá trình sản xuất thông qua việc đóng góp nội dung và hỗ trợ các hoạt động khác nhau.

Trong các ngành công nghiệp văn hóa, tối đa hóa lượng khán giả đồng nghĩa với tối đa hóa lợi nhuận khi mà kinh phí sản xuất, tái sản xuất gần như không thay đổi. Như vậy, trong một chừng mực nào đó, có thể nói, khán giả và quá trình tiêu dùng hàng hóa văn hóa quyết định sự tồn vong của các ngành công nghiệp văn hóa. Cũng vì vậy, nhiều quốc gia đã coi việc phát triển người tiêu dùng hay phát triển khán giả là yếu tố then chốt để phát triển công nghiệp văn hóa.

TDVH để chỉ việc sử dụng các sản phẩm văn hóa, nhấn mạnh sự chủ động của cá nhân trong việc tìm kiếm, lựa chọn loại sản phẩm cũng như phương thức, phương tiện nào để tiêu dùng. TDVH ngày càng giữ nhiều vai trò quan trọng như đáp ứng nhu cầu giải trí, thúc đẩy sự sáng tạo, góp phần định hướng lối sống và kiến tạo bản sắc. Bối cảnh toàn cầu hóa cùng với đó là sự phát triển của internet, sự mở rộng nhanh chóng của thị trường sản phẩm văn hóa đã và đang đem lại nhiều cơ hội, nhiều lựa chọn hơn cho việc TDVH của người dân.

_____________

Tài liệu tham khảo

1. Lê Như Hoa, Tiêu dùng văn hóa trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Viện Văn hóa - Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội, 2001.

2. Nguyễn Tiến Mạnh, Tiêu dùng văn hóa - một lĩnh vực cần nghiên cứu trong vấn đề quản lý văn hóa Việt Nam hiện nay, tham luận Hội thảo Mối quan hệ giữa kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế qua thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Bộ VHTTDL tổ chức tại Trường Đại học Văn hóa TP.HCM, 21-5-2013.

3. Đặng Thị Thúy Hằng, Đời sống văn hóa của cư dân ven biển Hà Tĩnh thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, 2015.

4. Đặng Thị Thu Hương, Văn hóa truyền thông đại chúng ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và toàn cầu hóa, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016, tr.234.

5. Báo cáo Việt Nam năm 2021, digitalvn.vn.

6. Đoàn Văn Chúc, Xã hội học văn hóa, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1997, tr.224-225.

7. Đinh Thị Vân Chi, Nhu cầu giải trí của thanh niên (nghiên cứu khuôn mẫu giải trí của thanh niên và sự đáp ứng nhu cầu giải trí tại Hà Nội), Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.

8. Đinh Việt Hà, Văn hóa giải trí của giới trẻ Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 5 (173), 2017, tr.41-50.

9. John Storey, Cultural Consumption in Everyday Life (Cultural Studies in Practice) (Tiêu dùng văn hóa trong đời sống hằng ngày), Bloomsbury USA, 1999.

10. Throsby, D, Economics and culture (Kinh tế và văn hóa), Nxb Đại học Cambridge, 2001.

PHẠM THỊ HƯƠNG - Ths NGUYỄN THỊ KIM CHI

Nguồn: Tạp chí VHNT số 533, tháng 5-2023

;