Về Xuân Dương đắm say trong câu hát Sli

Xã Xuân Dương thuộc huyện Na Rì của tỉnh Bắc Kạn trước đây (nay là tỉnh Thái Nguyên) được nhiều người biết đến bởi nơi đây có Chợ tình Xuân Dương. Chợ chỉ họp một “phiên” duy nhất trong năm. Không gian chợ một bên là dòng suối Bắc Sen, một bên là đường liên huyện cho nên vừa là nơi gặp gỡ, giao lưu và cũng là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào vùng cao, đặc biệt là của đồng bào dân tộc Nùng. Lý giải có chợ tình Xuân Dương, trong dân gian có cả một câu chuyện dài gắn với tình chồng nghĩa vợ của đôi trai gái đi làm ruộng và xảy ra biến cố. Cũng từ đó mà đồng bào Nùng lấy không gian nơi đây gắn với cốt chuyện lưu truyền trong dân gian giải thích sự ra đời của phiên chợ này. Hiện nay, cộng đồng vẫn bền bỉ giữ gìn và phát huy nét đẹp truyền thống của chợ này, tạo nên một không gian văn hóa độc đáo, giàu bản sắc.

Phiên chợ là nơi để các cặp đôi gặp gỡ, ôn lại kỷ niệm xưa hoặc cũng là nơi bắt đầu cho những mối tình bền chặt. Sẽ không quá lời khi cho rằng cụm từ “Chợ tình Xuân Dương” đã được định vị trên bản đồ du lịch. Nó không còn của riêng đồng bào Nùng vùng này mà là dịp để các cộng đồng dân tộc anh em trong vùng đến để gặp gỡ, giao lưu nên phiên chợ như một vườn hoa đa sắc. Trong tiết trời mùa Xuân, khi còn nông nhàn, đồng bào có dịp để đi chơi Xuân nên ai cũng khoác trên mình những bộ trang phục truyền thống đẹp nhất, khuôn mặt, nụ cười rạng rỡ nhất. Chỉ vậy thôi thì chưa đủ, đến với chợ tình Xuân Dương chúng ta còn được thưởng thức những câu hát giao duyên, đây mới chính là điểm nhấn của phiên chợ. Từng nhóm, từng nhóm nam, nữ dân tộc Nùng, Tày gặp nhau cười nói rộn ràng rồi cất lên những câu ca đầy chất tình cùng những ánh mắt trao nhau trong ngày xuân rộn ràng. Đó là những câu hát Then, Sli, lượn hòa quyện trong cái không gian mà ở đó trời đất cùng con người hòa quện vào nhau. Trong cái không khí vui tươi, nhộn nhịp, náo nức đó có những đôi mắt như đang kiếm tìm, phấp phỏng đợi chờ một cuộc gặp được lặp lại trong đời, đầy nhân văn. Chẳng thế mà, chính cũng tại phiên chợ này cách đây mấy chục năm đã có những đôi trai gái gặp nhau, họ đem theo câu Sli xuống chợ hát với nhau để rồi thành vợ thành chồng. Dù thành vợ chồng và đã “lên ông, lên bà” rồi nhưng giờ đây hằng năm họ vẫn cứ cùng nhau xuống chợ, xuống chợ để được sống lại cùng những kỷ niệm ngày nào, xuống chợ để được trao truyền, quảng bá giá trị văn hóa của đồng bào mình. Họ là một trong những cặp vợ chồng hiện đang sống tại Thôm Chản, xã Xuân Dương hiện nay. Khi tham dự phiên chợ và trải nghiệm mới thấy họ như những báu vật nhân văn sống của cộng đồng.

Toàn cảnh buổi hát giao duyên bên bờ suối Bắc Sen

 

Hát Sli tồn tại suốt bao đời, gắn bó máu thịt và trở thành tài sản tinh thần quý giá, một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa của người Nùng ở vùng này. Cùng với ngôn ngữ nói, Sli là một phương tiện giao tiếp trên mọi phương diện cuộc sống, hiện hữu, gắn bó với chu trình vòng đời mỗi cá nhân trong cộng đồng. Bởi thông qua những câu/bài Sli mà bao đôi trai gái đã nên vợ, thành chồng (Sli giao duyên); Sli cũng có những lời chúc của mọi người cho đôi vợ chồng trẻ có cuộc sống hạnh phúc, thuận hòa, sớm sinh con, gia đình, gia tộc may mắn, bình an (Sli đám cưới), có những lời Sli tâm tình, chúc phúc, mừng vui của cuộc sống (Sli vào nhà mới, lễ đầy tháng trẻ sơ sinh); là những nỗi niềm giãi bày, tâm sự xoay quanh việc kể lại quãng đời nhân vật trung tâm của sự kiện, đồng thời kể lại công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, ông bà, tổ tiên cùng lời chúc sống lâu, khỏe mạnh, vui vẻ cùng con cháu (Sli mừng thọ); là các bài khóc than, thể hiện sự thương tiếc đối với người đã khuất, cầu mong họ sẽ phù hộ, bảo vệ cho con cháu (Sli đám ma)...Tất cả những lời trong bài Sli đều thể hiện tính xã hội và nhân văn của mối quan hệ ứng xử giữa con người với con người, con người với tự nhiên, xã hội. Chính những lời Sli này góp phần cho cuộc sống mỗi thành viên cộng đồng thêm hồn nhiên, tươi vui góp phần xây dựng đời sống tinh thần mỗi cá nhân thêm phong phú, đa dạng, thêm tin yêu vào cuộc sống.

Đồng bào Nùng luôn tự hào với loại hình diễn xướng dân gian này, họ trân trọng trong trao truyền và thực hành. Với họ, đó là văn hóa, là trí tuệ thấm đẫm chất nhân văn chất chứa trong từng câu chữ, giai điệu, ý và lời đều mang thông điệp của tình cảm, ước mong. Giờ đây, về Thôm Chản xã Xuân Dương khi nói về nghệ thuật hát Sli, cộng đồng ở đây sẽ nhắc đến cái tên Nông Văn Hồ. Ông được cộng đồng trân quý và là một trong số những cá nhân có uy tín trong cộng đồng, ông không chỉ là cá nhân thực hành nhiều nghi lễ văn hóa dân gian (thày cúng) mà còn là người thực hành hát Sli, truyền dạy Sli. Cùng với ông Nông Văn Hồ sinh năm 1962, ông Nông Văn Vọng sinh năm 1957 không chỉ hát Sli mà còn là người ghi chép lại, lưu giữ nhiều bài Sli truyền thống. Có thể nói, hai cá nhân này hiện như báu vật nhân văn sống của cộng đồng. Hai ông đã truyền dạy các bài bản cho nhiều người và thành lập nên Câu lạc bộ Sli, tập hợp được gần 40 thành viên trong đó có 20 thành viên hát tốt, đặc biệt hiện nay Câu lạc bộ có thành viên nhí 10 tuổi (cháu nội ông Nông Văn Hồ). Nghệ nhân Nông Văn Hồ cũng chính là Chủ nhiệm Câu lạc bộ Sli Xuân Dương. Như vậy, để thấy sức sống của Sli đang được kéo dài và có tính kế thừa. Đại diện chính quyền xã - ông Lô Văn Lê khẳng định: “Để bảo vệ và phát huy những giá trị đặc sắc hát Sli của người Nùng thì việc truyền dạy lại cho thế hệ trẻ là hết sức cần thiết. Các nghệ nhân trong xã tích cực tuyên truyền, vận động, giáo dục nâng cao nhận thức, bồi dưỡng niềm say mê, yêu thích, tự hào cho các thế hệ con cháu trong gia đình, dòng họ đối với những làn điệu dân ca, dân vũ nói chung và điệu Sli của dân tộc Nùng nói riêng với mong muốn những làn điệu Sli sẽ được lưu truyền lâu dài cho các thế hệ sau”.

Nghệ nhân Nông Văn Hồ (phải) và ông Nông Văn Sùng

 

Hát Sli là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng, nó như sợi dây vô hình kết nối giữa các nhóm nam - nữ với nhau. Việc gặp nhau đã quý nhưng có hát với nhau được hay không thì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Vì thế, trước khi diễn ra quá trình hát giao duyên, bên trai phải có những câu hát “đánh tiếng”, “ướm hỏi” xem bên nữ có đồng ý hát cùng hay không. Tiếng địa phương phiên âm là “Sli khấy pác”. Nếu nhận được sự đồng ý, người hát sẽ hát những câu thăm hỏi (Sli khẩu) rồi đến chúc mừng (Sli cống hỷ), sau đó mới đến những câu Sli đối đáp trữ tình trên những giai điệu khuôn mẫu nhưng câu từ tự người hát ứng tác tại chỗ giữa các bên. Khi bên này vừa ngừng tiếng Sli (hỏi) thì bên kia cũng phải có người nhanh chóng cất lời Sli đáp lại với lối hát bè, hòa thanh giọng cao, giọng thấp, không có nhạc đệm, không có vũ đạo kèm theo, khi hát người hát tự phối bè với nhau, giao lưu, trình diễn theo một chủ đề, cốt truyện nhất định do người hát tự biên tự diễn thể hiện qua nét mặt, qua một vài cử chỉ, điệu bộ của tay để diễn tả nội dung khi hát. Ngày nay, để hấp dẫn, thu hút thêm người nghe thì tùy thuộc vào không gian diễn xướng, ví dụ tại Chợ tình Xuân Dương, người hát đã có sự hỗ trợ của cây sáo trúc.

Trao đổi với nghệ nhân Nông Văn Hồ và nghệ nhân Nông Văn Vọng ở Thôm Chản thì được biết thêm và khẳng định rằng hát Sli là hình thức hát thơ với ba lối hát cơ bản: Hát nói (đọc thơ); xướng Sli (ngâm thơ); dằm Sli hoặc nhằm Sli (lên giọng hát). Cùng với các lối hát trên Sli có 2 hình thức hát gồm thể tự do và thể bài bản có sẵn tạo thành cuộc hát. Không gian diễn xướng loại hình nghệ thuật Sli khá phong phú bởi nó có thể được diễn ra ngay ngoài trời, nơi diễn ra ngày hội, buổi chợ phiên, bên bóng cây, ven suối… thậm chí trong tang ma, cưới xin hay lên nhà mới, mừng thọ. Hễ ai một lần được “sống” trong bầu không khí của buổi hát Sli hẳn sẽ đều cảm nhận được cảm giác đắm say trong từng nhịp điệu. Dưới cái nắng nhè nhẹ bên dòng suối êm đềm được phủ bởi màu xanh của núi rừng mà chứng kiến cảnh nhóm nam nữ hát giao duyên thì thật không gì thi vị hơn. Con người nơi đây là thế, luôn đắm say trong từng câu hát, rộng lòng mến khách, chẳng thế mà cộng đồng quanh vùng ai nấy đều háo hức chờ đón phiên chợ tình Xuân Dương mỗi dịp Xuân sang Tết đến.

Hai thành viên nhỏ tuổi của CLB biểu diễn trong Ngày hội, tháng 11/2024
 

Trao đổi với ông Lô Văn Lê, lãnh đạo xã Xuân Dương, ông cho biết Sli là một làn điệu dân ca đặc sắc trong kho tàng văn nghệ dân gian của đồng bào dân tộc Nùng ở Bắc Kạn nói riêng và khu vực Việt Bắc nói chung. Ngày 9/3/2021, Bộ VHTTDL đã ban hành Quyết định số 830/QĐ-BVHTTDL về việc đưa “Hát Sli của người Nùng, xã Xuân Dương, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn” vào Danh mục Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia. Tuy nhiên, để bảo tồn và phát huy được giá trị của loại hình nghệ thuật này đặc biệt khai thác vào phát triển du lịch, các cấp chính quyền cần phải thực hiện đồng bộ một số giải pháp:

Trước hết, tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, tập hợp có hệ thống các bài bản, số hóa tư liệu để tuyên truyền, giới thiệu về nội dung, giá trị, ý nghĩa của hát Sli trên các kênh thông tin đại chúng.

Thứ hai, tạo động lực thúc đẩy việc mở các lớp truyền dạy hát Sli của dân tộc Nùng cho các tầng lớp nhân dân thông qua Câu lạc bộ một cách khoa học và bố trí thời gian phù hợp.

Thứ ba, khuyến khích cộng đồng thực hành, biểu diễn, giao lưu văn hóa văn nghệ với các nhóm, câu lạc bộ có cùng sở thích không chỉ trong phạm vi xã mà mở rộng không gian trong cộng đồng các dân tộc anh em. Đặc biệt cần sớm có chính sách tốt nhằm đãi ngộ, động viên về vật chất, tinh thần đối với những người cao tuổi hiện đang lưu giữ, trao truyền các giá trị văn hóa dân gian cho giới trẻ trong cộng đồng trong đó có loại hình diễn xướng Sli nhằm duy trì, phát triển, khai thác có hiệu quả các giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thông trong xã hội đương đại.

Các nghệ nhân truyền dạy cho thế hệ trẻ trong bản
 

 

Ths. CAO TRUNG VINH - Ths. NGUYỄN TIẾN LỘC

Nguồn: Tạp chí VHNT số 617, tháng 8-2025

 

;