Chặng đường trải nghiệm của Đại thi hào Nguyễn Du qua tập Bắc hành tạp lục

Vào năm 1813, vua Gia Long ban chiếu cử Nguyễn Du làm Chánh sứ dẫn đầu phái bộ sang triều cống vua nhà Thanh. Theo dòng nhật ký, nhà thơ hoàn thành tập Bắc hành tạp lục gồm 130 bài trong cuộc hành trình này, trở thành một tác phẩm quan trọng trong di sản của Nguyễn Du để lại cho nền văn học nước nhà.

Cuộc hành trình hết bộ đến thuyền, bao nhiêu bức tranh đời sống xã hội hằng ngày diễn ra trước mắt sinh động như những cảnh phim lạ lẫm muôn hình nghìn vẻ. Điều thú vị nhất là vị sứ giả đã ghi đậm những cảm xúc bằng thơ, tựa như những trang Nhật ký du lịch hàng ngày.

Nếu như vào năm 1804 đến xứ Lạng đón tiếp sứ nhà Thanh sang phong vương cho Vua Gia Long, nhà thơ chỉ ghi cảm xúc về thiên nhiên, và nỗi nhớ nhà, thì năm 1813 trên đường đi sứ Bắc hành trở lại Trấn Nam Quan thì bài thơ không chỉ ngợi ca vẻ đẹp núi sông, mà còn khắc họa một chốn biên cương hùng vĩ từng được dựng xây từ đời Lý, Trần ba trăm năm trước:

Việc cũ Lý Trần xa xôi khó tìm biết,      

Trải qua ba trăm năm thẳng đến ngày nay.

Bức thành lẻ loi này phân chia hai nước,

Một cửa ải hùng vĩ đứng trấn giữa lòng muôn ngọn núi.

(Lưỡng quốc bình phân cô lũy diện

Nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm)

Mạnh mẽ hơn, mở đầu bài Quỷ môn quan, vị Chánh sứ lại tiếp tục khẳng định:

Núi liên tiếp cao vút tận mây xanh,

Nam Bắc chia ranh giới ở nơi này.

Mỗi lần xâm lược nước Đại Việt, quân lính “thượng quốc” đều phải đi qua Quỷ môn quan (Ải Chi Lăng), cho nên ngay trên đất Trung Hoa đã tồn tại từ bao đời câu phương ngôn đầy cay đắng:

Quỷ môn quan! Quỷ môn quan,

Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn.

Chính vì thế, nhà thơ đã chất vấn một cách châm biếm:

Từ xưa gió lạnh thổi xương trắng,         

Kỳ công của tướng quân nhà Hán (Mã Viện) có gì đáng khen?

Đặc bit nht phi nói đến đim nhìn v Mã Vin, viên tướng tàn bo tham lam qua hai bài thơ Miếu Phục Ba ở thành Kép Đề miếu Mã Phc Ba Đại Than.

Khi vừa đặt chân lên đất Trung Hoa, qua Thuyền đi trên sông Ninh Minh, một ấn tượng mới lạ đập mạnh vào tầm nhìn khiến vị sứ giả ngỡ ngàng ngạc nhiên bật lên câu hỏi:                 

… Người ta đều nói đường Trung Hoa bằng phẳng 

Đường Trung Hoa mà thế này ôi!

Sâu hiểm quanh co giống lòng người:

Nguy vong nghiêng đổ đều là do ý trời.

Nhưng đến khi càng đi sâu vào miền đất trung nguyên bao la này, được tn mt nhìn cnh sng lao đao ca bao người, t em bé khát sa đến lão già đói rách ct tiếng hát xin ăn cùng hàng vn người “dân ăn độn nửa cám”, nhà thơ hoàn toàn thất vọng, viết nên bao lời thơ đầy suy ngẫm, vừa khẳng định, vừa hoài nghi:

… Ai vẽ bức tranh này,

Dâng lên nhà vua rõ!    

                             (Sở kiến hành)

Vốn dạt dào lòng nhân ái, những vần thơ thể hiện nỗi bất bình trước cảnh giàu nghèo bất công triền miên ngày tháng diễn ra tại chốn này. Nỗi niềm ưu ái của nhà thơ trào dâng qua Nhật ký hành trình loanh quanh đi về suốt dặm dài từ nam chí bắc hai năm tròn. Nào cảnh, nào người, bức tranh “xã hội thiên triều” được phơi bày lồ lộ dưới ngòi bút hiện thực tỉnh táo không hề né tránh. Bao suy ngẫm được dàn trải qua nhiều cung bậc vừa khái quát, vừa cụ thể. Lần lượt các ngõ ngách xã hội Trung Hoa được phơi bày một cách tự nhiên tràn đầy chi tiết chính xác như những bức tranh ký sự thời hiện đại, tuy viết qua thơ chữ Hán. Trước hết, hãy quan sát bức tranh sinh động về lịch sử đất nước “thượng quốc” được khắc họa hết sức nổi bật qua bài Mộ kỳ lân:       

Lân ôi, Lân ôi, thân mày sao khổ thế,

Huống chi Yên Đệ1(vua Minh Thành Tổ) là người thế nào?

Cướp ngôi của cháu để tự lập không phải là bậc nhân quân.

Hả cơn giận dữ giết người họ;

Trung thần bị đánh trượng và nấu vạc lớn.

Trong năm năm mà giết đến hơn trăm vạn người.

Xương trắng thành núi đất đẫm máu...

Lân ơi, quả vì người y mà ra

Tác giả mượn hình tượng kỳ lân - con vật huyền thoại - nhằm phê phán Vua Minh Thành Tổ cướp ngôi của cháu để tự phong ngôi Hoàng đế. Sâu xa hơn, chính gã đã xua hàng vạn quân, sai Trương Phụ chỉ huy sang đánh cướp nước Việt rồi tiếp tục đô hộ suốt 10 năm và đã gây nên vô vàn tội ác mà trúc rừng không ghi hết tội. Cuối cùng nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Vua Lê Lợi đã đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi vào năm 1827.

Tượng đài Đại thi hào Nguyễn Du, ở Hà Tĩnh

 

Đấy là nói chuyn "đạo đức" ng x ca thiên triu, còn tình trạng xã hội đương thời của đông đảo thảo dân Trung Hoa ra sao, xin hãy đọc thêm bài thơ dài vẽ tả hình hài Người hát rong ở Thái Bình vừa mù, vừa đói rách phải nhờ đứa cháu nhỏ dắt tay đi kiếm ăn từng bữa! Hai nhân vật ông cháu đáng thương hại sóng đôi bên nhau lần mò từng bước hiển hiện qua từng chi tiết, gợi nên khung cảnh tăm tối tiêu biểu cho hàng triệu người sống trên miền đất Trung Nguyên:                   

Người mù ở Thái Bình mặc áo vải to,                                                                                                                                         

Một đứa bé kéo dắt đi ở bờ sông.

Người ta bảo là người ăn xin ở ngoài thành,

Hát rong xin tiền để kiếm bữa cơm sáng.

… Bấy giờ trong thuyền tối không có đèn,

Cơm thừa canh bỏ quá bừa bãi.

… Miệng trào bọt trắng, tay co quắp                                                

Còn ngồi lượm dây báo hết bài.

Ráng hết tâm lực chừng một canh,

Mà tiền chỉ được năm sáu đồng…

…Chỉ nghe nói ở Trung nguyên người ta đều no ấm,

Trung nguyên cũng có người thế này sao?...

… Thuyền này thuyền khác đầy thịt gạo?

Người đi ăn no thì bỏ thừa,

Thức ăn thừa cùng cơm nguội bỏ chìm dưới đáy sông.

Những câu hỏi cháy bỏng gay gắt mà cảm động đang vò xé tâm can người viết lẫn người đọc, song không sao tìm được lời giải đáp!

Chỉ nghe nói ở Trung Nguyên người ta đều no ấm,

Trung nguyên cũng có người thế này sao?

Với tầm nhìn sắc sảo và niềm xót thương trĩu nặng trước cảnh sống lay lắt của nhân dân bản địa, nhà thơ cảm thấy chạnh lòng khi nhìn rõ cảnh người mù đói khát Miệng trào bọt trắng tay co quắp hoàn toàn ngược lại với Người thì ăn no thịt bỏ thừa - bỏ chìm dưới đáy sông.  Quả là tình trạng bất công đầy bi thảm! 

Đim ni bt chuyến Bắc hành này là nhà thơ đã chú ý nhiu đến hoàn cnh sng ca qun chúng tho dân nghèo kh nơi đây. Nhng bc tranh m đạm v tình trng xã hi bn địa được khc ha qua nhiu sc thái. Trong tập Bắc hành tạp lục đã có đến 10/130 bài mô tả trực tiếp số phận bế tắc của đông đảo lớp thảo dân, mà ngh thut hin thc thế k XIX Nga và phương Tây gi đối tượng miêu t y là lớp người nhỏ bé đáng thương hại”. Đây chính là cơ s ca ch nghĩa nhân đạo truyn thng cao đẹp xuyên sut tp thơ.

Nếu đọc bài hành khá dài Trở binh hành (Bài hành bị binh cách ngăn đường), ai cũng có thể thấy cảnh loạn lạc bùng phát khắp nơi, và người dân chết đói đầy đường đang hin ra gia thanh thiên bch nht:          

... Đất này t tháng Sáu đến tháng Chín,

Hai huyện Hoạt, Tuấn đều nổi binh.

Giặc giết quan lại mười người chết tám chín.

Đầy thành gió Tây thi mùi tanh ca máu…     

Hàng đoàn người đói rách lang thang nối đuôi nhau đi ăn xin, thất thểu kiếm miếng ăn từ tỉnh này qua tỉnh khác: 

Hồ Nam, Hà Nam lâu không mưa,

Từ xuân đến thu ruộng không cày được.

Trai lớn gái nhỏ luôn sắc đói,

Tấm cám làm cơm lá lê làm canh,

Mắt thấy người đói chết ở giữa đường.

Hột táo trong bọc lăn bên mình…   

… Hơn mấy trăm hộ đều vì đói mà xiêu giạt,

Dân mọn đều không chịu được rét và đói.

Hình ảnh Hạt táo trong bọc lăn bên mình em bé chết đói lay động tận tâm can nhà thơ và làm xao xuyến biết bao người đọc. “Tức nước vỡ bờ”, câu ngạn ngữ dân gian phổ biến dường như cũng đang sống động trên đất nước Trung Hoa thời bấy giờ?

Thực tế tình trạng đông đảo dân nghèo không tìm ra lối thoát khiến bao người đói chết ở giữa đường cũng là hình ảnh vùng đất xưa kia từng vang động cuộc nổi loạn Hoàng Sào kéo dài suốt 10 năm làm nghiêng ngả triều đại nhà Đường, mà chính Nguyễn Du đã nhắc đến trong Truyện Kiều và trong bài thơ ngắn Binh mã của Hoàng Sào.

Tầm suy ngẫm của nhà thơ còn mở rộng hơn khi nhìn lại những chuyển biến bão táp lịch sử qua các triều đại vua chúa trên đất “thiên quốc”:

Thành Hứa châu là kinh đô của vua Hán,

Họ Tào cướp cơ đồ nhà Hán ở nơi này,

Ngụy nhận Hán nhường ngôi. Tần lại nhận cho Ngụy nhường ngôi.

Trước sau đi ra vẫn theo một đường.

 Ngụy mất. Tần nối thay triều đại.

Từ đấy đến nay mấy ngàn năm?

Trong khoảng ấy biết bao người dấy lên và sụp đổ.

Mà tòa thành cao chót vót chưa từng thay đổi…

       (Thành Hứa đô cũ)

Còn đời sống hằng ngày của nhân dân lao động thì vẫn hiện ra ngổn ngang gò đống muôn màu buồn tẻ. Bài thơ Xóm trên núi Hoàng Mai giúp người  đọc phương xa biết rõ về một bức tranh tiêu biểu ở tỉnh Hà Bắc:

Những ngươi ở trong cửa, 

Suốt năm làm cái gì ?

Việc đàn bà chỉ là kéo sợi gai,

Việc đàn ông là cày cuốc.   

Cày cuốc vì được thong thả,

Thì xuống núi chặt cành tùng

Tạm để đủ nộp thuế nộp cho quan.

Không chuộng học thư và thi.

Người giục thuế mà không đến

Gà chó đều vui vầy.

Quả là tinh đời qua hai câu thơ cuối vừa chân thực, vừa châm biếm tạo nên tiếng cười hài hước mai mỉa của bức tranh chi tiết, cụ thể. Thậm chí cả gà chó cũng được nhân hóa khi gà giục thuế không đến! Đây chính là nét mới mẻ trong phong cách phóng sự hiếm hoi mà mới mẻ trên quá trình phát triển văn thơ của Nguyễn Du thời kỳ đầu thế kỷ XIX. Một khung cảnh lạ lẫm mà thiết thực đậm nét hiện đại. Suốt những chặng đường xe ngựa từ chốn này sang chốn khác giữa nắng hè chói chang, nhà thơ dường như lại nhớ về khung cảnh tượng đồng chốn quê nhà đất Việt:     

Người đẩy xe kia ở xứ nào đây?

Nhìn nhau thấy vất vả như nhau…

       (Nắng dữ trên đường Hà Nam)

Thơ chữ Hán Nguyễn Du

Truyện Kiều bằng chữ Nôm
 

Sâu sắc hơn, chẳng phải hình ảnh cô gái trẻ Tiểu Thanh tài sắc thời Minh cũng thuộc lớp người chịu số phận đắng cay tủi nhục khi làm “vợ bé” của một người giỏi thơ văn họ Phùng; vì vợ cả ghen tức nên phải ở nhà riêng tại đất Tây Hồ, rồi buồn bực quá mà m chết lúc mi mười tám tui! Nàng có để li mt tp thơ, sau khi chết b người v c đem đốt, may mà có người bà con cu được một phần. Lúc đi qua Hàng Châu, nơi có mộ Tiểu Thanh, có lẽ qua tập Tiểu Thanh ký, câu chuyn làm động lòng trc n ca nhà thơ nên không th cm lòng; mà li liên tưởng đến thân phn ca chính mình, nên đã ngm ngùi viết bài thơ:             

Vườn hoa ở Tây Hồ đã thành bãi hoang hết,

Một mình ngồi trước cửa sổ viết một tờ thư viếng.

Son phấn có thần nên để lại niềm xót thương sau khi chết.

Văn chương không có duyên phận nên đốt rồi mà lụy còn sót lại                              

Mối hận cổ kim khó hỏi trời,

Oan lạ của người phong vận ta cũng tự thấy có mình ở trong ấy.

Không biết ba trăm năm về sau,

Trong sáu ngôi thiên hạ có ai khóc Tố Như không?       

Đồng bnh tương liên, ni nim tâm s trào dâng t đáy lòng nhà thơ vn đọng li vi thi gian trên đất Vit khiến bao người xao xuyến mãi đến tn ngày nay gia xã hi mi mi ln đọc đến hai câu thơ t tình:

Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?  

       (Độc Tiểu Thanh ký)

Từng tận mắt chứng kiến bao cảnh tượng đau lòng, nhà thơ đã phơi bày đậm nét tình trạng đói khổ cùng đường ca đông đảo dân nghèo ti thiên quc qua nhiều cung bậc trữ tình sâu sắc...

Thêm nữa, khi đi qua Đình Tô Tn - ngôi đình mang tên con người này vốn là một thuyết khách nổi tiếng thời Chiến quốc từng làm lay chuyển sáu ngôi vị vua chúa để mong lập thân kiếm địa vị cao sang, nhưng cuối cùng thất bại bị mọi người đời khinh rẻ, kể cả những người trong gia đình. Câu chuyện đã xưa cũ lắm rồi, song nhà thơ viết hai bài đầy suy ngẫm dường như muốn thể nghiệm với  chính mình và cho người đời nhng bài hc thiết thc:  

… Kế sách tung hoành tự có thể lừa bọn chúa tầm thường.

Giàu sang còn có thể ngạo với đàn bà góa.

Ấn sáu nước tiêu mất, còn bãi cát man mác,

Hơi thu muộn ở quanh đình trên cỏ rậm rạp.

Đời người quyn li tht là vô v,

Xưa nay ai có thể phá được cõi mê này?  

       (Đình Tô Tần I)  

Nhìn khái quát về nghệ thuật, có thể nói trong văn chương thành văn nước ta trước nhà thơ Nguyễn Du chưa hề xuất hiện những áng thơ hiện thực chính xác, sinh động, cụ thể và hoàn chỉnh được như thế... So sánh với dòng thơ cổ điển Đường Tống, rõ ràng tác giả đã mở rộng tầm nhìn, tạo được một bước tiến mới quan trọng về chức năng của văn nghệ. Nguyễn Du không dừng lại ngâm vịnh thiên nhiên và xướng họa chốn cung đình, mà đi sâu vào những vấn đề nóng hổi của đời sống đông đảo “lớp thảo dân lao động cùng khổ” hoàn toàn đối lập với giới thượng lưu giàu có. Đúng là nhà thơ đã tự tạo dựng cho mình một thế giới quan mới mẻ trong sáng tác thơ ca đầu thế kỷ XIX… Quả là mt đóng góp ln vào bước phát trin ca dòng văn thơ dân tc.   

Do sự ngăn cách về ngôn ngữ, những bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du chưa được phổ biến sâu rộng trong bạn đọc đông đảo như Truyện Kiều. Tuy vậy, tập thơ đã làm cho kho tàng thi ca nước Việt thêm phần phong phú. Ngày nay mỗi lần đọc lại tập Bắc hành tạp lục, chúng ta lại càng trân trọng quý mến ý thức dân tộc cùng tấm lòng nhân đạo mênh mông và tài năng lỗi lạc của nhà thơ. Tập thơ Bắc hành tạp lục đã m ra mt tm nhìn mi v đất nước - xã hi - thơ văn Trung Hoa.

                                       

1. Yên Đệ tức Vua Minh Thành Tổ (1403 - 1424) xua 80 vạn quân do Trương Phụ chỉ huy xâm lược nước ta, tiếp tục cai trị tàn bạo suốt 10 năm đã bị Vua Lê Lợi lãnh đạo toàn dân đánh bại.

 

PGS, TS. NGUYỄN TRƯỜNG LỊCH

Nguồn: Tạp chí VHNT số 617, tháng 8-2025

;