Hát Tơm, nét đẹp văn hóa của người Khơ Mú ở xứ Thanh

Trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, người Khơ Mú sinh sống tập trung chủ yếu ở huyện biên giới Mường Lát. Trong kho tàng văn nghệ dân gian của người Khơ Mú, làn điệu dân ca được ưa thích nhất là hát Tơm. Hát Tơm mang đậm chất sử thi, trữ tình, cách hát đối đáp vừa sáng tạo vừa thể hiện tình cảm ngọt ngào, sâu lắng. Để có thể hát hay, người hát không chỉ có giọng truyền cảm mà còn phải biểu hiện được sắc thái sao cho duyên dáng.

Hát Tơm là kho báu tinh thần của người Khơ Mú huyện Mường Lát (cũ)

Người Khơ Mú, bao đời nay sống bằng canh tác nương rẫy gắn với câu thành ngữ “Thái ăn cá, Xá ăn lửa”. Xá là tên gọi của người Khơ Mú xưa với phương thức đốt nương làm rẫy, phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên nhưng đời sống tinh thần của họ lại vô cùng phong phú. Điều đó được thể hiện rõ nhất ở loại hình sinh hoạt văn hóa cộng đồng là dân ca, dân vũ. Nó được các nhà văn hóa đánh giá là một thành tố không thể thiếu trong kho tàng dân ca, dân vũ Việt Nam. Bởi nó phản ánh một cách sâu sắc nhất cuộc sống lao động sản xuất nông nghiệp của người Khơ Mú, đồng thời qua đó thể hiện sức mạnh gắn kết cộng đồng trong quá trình chinh phục và làm chủ thiên nhiên của người Khơ Mú.

Mỗi làn điệu đều mang một hơi thở, một tâm hồn và phản ánh chân thực nhất đời sống tinh thần của họ. Hát Tơm xuất hiện từ khi nào, không ai biết. Chỉ biết rằng từ bao đời nay người Khơ Mú vẫn truyền tai cho nhau những câu hát đó. Với hát Tơm, nó được ví như những làn điệu dân ca của người Kinh, mang đậm chất sử thi, trữ tình, lúc du dương, êm ái, tình tứ; lúc thì lại rộn ràng, nhộn nhịp. Hát Tơm có thể hát một người hoặc hát đối, hát tập thể. Lời hát Tơm mộc mạc, đơn giản, gần gũi với đời sống con người. Vạn vật thiên nhiên là chủ thể trong những lời hát Tơm nhưng sâu lắng trong đó là sự ý nhị, lòng cao thượng, đầy bao dung của con người, trong khi hát có các nhạc cụ như sáo và nhạc cụ gõ phụ họa.

Người Khơ Mú có thể hát Tơm vào bất cứ thời gian nào và bất cứ ở đâu. Tuy nhiên, hát Tơm được thể hiện nhiều nhất trong những dịp vui của gia đình, bạn bè và làng xóm. Hát khi mừng đám cưới, khi thì lên nương, khi xuống chợ, hát khi vui mừng lễ hội, mừng nhà mới,… và hát cả khi buồn, họ mượn lời bài hát để giãi bày tâm sự. Hát Tơm tùy theo tài ứng khẩu, kinh nghiệm cũng như sự hiểu biết của từng người mà có thể được kéo dài, có vần, có điệu, có nội dung và có ý nghĩa. Phần lớn trong hát Tơm, người ta sử dụng lối hát ứng tác tại chỗ, tức là ứng khẩu giữa hai bên. Còn những bài hát truyền thống thì thường phản ánh kể cuộc sống xưa, tri ân các anh hùng, công lao những người khai mở đất đai, lập bản làng; ca ngợi tình yêu quê hương, ca ngợi tình cảm anh em, họ hàng, ca ngợi tình yêu đôi lứa,… “Ơ thăm hôốc ơ rưn bạn thăm hay a ti xùa/ Đông mua dạt thả lặm tày rắn, xấc chạu phạ/  Ơ...Thăm...ơ” dịch nghĩa: “Bản dưới có cái chiêng/ Bản trên có cái nhị/ Đất bản ta có cha Mua/ Ta đánh không thua giặc vua trời”.

Sự đa dạng trong các điệu hát Tơm cho thấy tâm hồn của người Khơ Mú hết sức phóng khoáng. Trong sinh hoạt đời thường người Khơ Mú thường hát mộc (không có nhạc đệm) hoặc hát có tiếng đệm của sáo Pí Tơm (loại sáo dọc bằng tre), đó cũng là loại nhạc cụ đặc trưng của người Khơ Mú. Nội dung của các bài hát Tơm thường gắn với câu chuyện về lịch sử, về cuộc sống hạnh phúc hay khổ đau trong lịch sử của dân tộc Khơ Mú. Hát Tơm còn để ca ngợi tình yêu với bản làng, ca ngợi tình cảm anh em, họ hàng, ca ngợi tình yêu đôi lứa. Khi chàng trai chiếm được cảm tình của một cô gái, chàng trai có thể hát ứng tác để bày tỏ nỗi lòng của mình. Trong các dịp cưới xin, dựng nhà mới hay lễ mừng đầy tháng con trẻ thì các chàng trai cô gái đều có thể hát ứng khẩu với nhau. Cái hay của lối ứng đáp trong hát Tơm, chính là sự phong phú của ca từ. Tuy nhiên, trong các làn điệu hát Tơm vẫn có trật tự, quy định nhất định. Tuy cuộc sống vật chất còn nhiều khó khăn, song đời sống tinh thần của người Khơ Mú rất phong phú, thể hiện rõ nét trong các làn điệu hát Tơm. Điều đặc biệt là tất cả các làn điệu Tơm được người Khơ Mú sáng tác từ xa xưa và được lưu truyền bằng hình thức duy nhất là truyền khẩu. Những nghệ nhân thường truyền dạy hát Tơm cho con cháu từ đời này sang đời khác, nhờ vậy những làn điệu hát Tơm cổ ngọt ngào vẫn được bảo lưu tới tận ngày nay. Những làn điệu dân ca trong trẻo cùng các nhạc cụ mang âm hưởng đại ngàn là niềm tự hào về bản sắc văn hóa độc đáo của người Khơ Mú. Ngày nay cuộc sống đã có nhiều đổi thay, song người Khơ Mú vẫn sống đắm mình giữa thiên nhiên, luôn biết làm đẹp cho cuộc sống, làm đẹp tâm hồn mình từ những điều tưởng chừng như bình dị mà vô cùng quý giá mà ngàn xanh đã ban tặng cho con người.

Cùng với hát Tơm, người Khơ Mú có hát Cưn Trơ, giống như hát đồng dao của người Kinh trong lúc lên nương, làm rẫy. Người Khơ Mú rất thích xòe, múa và thổi các loại sáo, các nhạc cụ bằng tre, nứa tự tạo. Họ đặc biệt yêu thích thổi kèn môi và dân vũ (hay gọi là múa). Bởi vậy, nếu dân ca là những câu hát trữ tình sâu lắng, ý nhị thì dân vũ là những động tác mô phỏng lao động, sinh hoạt. Với người Khơ Mú, dân vũ được coi là một công cụ giáo dục đạo đức, lối sống cho các thế hệ con cháu. Bởi khi múa người Khơ Mú thấy được sự tự tin, yêu đời và qua đó, chúng ta thấy được cách thức họ đối diện với cuộc sống.

Tuy cuộc sống vật chất còn nhiều khó khăn, song đời sống tinh thần của người Khơ Mú rất phong phú, thể hiện rõ nét trong các làn điệu hát Tơm. Những điệu Tơm mỗi khi vang lên, lúc trầm bổng, lúc sâu lắng, lúc rộn ràng gửi gắm niềm mong muốn của người Khơ Mú về một cuộc sống bình yên, đủ đầy và hạnh phúc.

Bài và ảnh: LÊ HƯỜNG

Nguồn: Tạp chí VHNT số 616, tháng 8-2025

;