Độc đáo lễ Pang Phoóng của dân tộc Kháng, Điện Biên

Lễ Pang Phoóng (lễ Tạ ơn) của người Kháng, dòng họ Lò Khul, tỉnh Điện Biên là lễ hội phản ánh hiện thực trong đời sống tinh thần của cộng đồng người Kháng: lấy cội nguồn tiên tổ làm nền tảng để rèn dưỡng tâm, đức và nguyện cầu tổ tiên phù hộ độ trì cho dòng họ được nhiều may mắn. Lễ hội vừa được tái hiện tại Làng VH-DL các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội).

Lễ hội góp phần thỏa mãn nhu cầu tâm linh của cộng đồng người Kháng, là chỗ dựa tinh thần để mỗi người hướng về cội nguồn, dòng tộc, các vị thần và gửi gắm niềm tin, cầu mong một cuộc sống bình an, khỏe mạnh, sung túc, củng cố sức mạnh cộng đồng. Đây cũng là dịp để gặp gỡ, trao đổi, thắt chặt mối quan hệ cộng đồng, dòng họ; thể hiện tinh thần đoàn kết, tương trợ, bảo vệ và giúp đỡ nhau, là truyền thống tốt đẹp của các dòng họ người Kháng. Thông qua lễ hội, khuyến khích sự phát triển những giá trị văn hóa cộng đồng, các nghi thức, nghi lễ dân gian, sinh hoạt của người Kháng; góp phần giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn, hướng về tổ tiên; tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, khẳng định sức mạnh cộng đồng.

Phụ nữ dân tộc Kháng 

Tại Điện Biên, dân tộc Kháng cư trú tại một số huyện như: Mường Chà, Mường Nhé, Nậm Pồ và huyện Tuần Giáo. Đời sống kinh tế của dân tộc Kháng chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp như làm nương rãy và một số ít là ruộng nước. 

Dân tộc Kháng gồm có các dòng họ như: Lò, Lường, Quàng, Vì, Cà... Từng dòng họ lại có những quan niệm, nét văn hóa và những điều kiêng kỵ riêng. Đặc biệt, mỗi dòng họ đều có vật tổ, thường là các con thú hoặc cỏ cây thiêng là hiện thân của tổ tiên mình. Trong ba dòng họ Lò: Lò Lặc, Lò Khul và Lò Ngứn chỉ duy nhất có dòng họ Lò Khul của người Kháng còn gìn giữ, phát huy lễ hội Pang Phoóng. 

Lễ Pang Phoóng bắt nguồn từ sự tích kể về chuyện tình dang dở, đầy lãng mạn giữa chàng trai con Tạo bản và cô gái vượn của đồng bào dân tộc Kháng, dòng họ Lò Khul. Câu chuyện được lưu truyền trong cộng đồng dân tộc Kháng nhằm hướng thế hệ mai sau luôn nhớ về cội nguồn dân tộc. Lễ hội nhằm tạ ơn tổ tiên, thần linh đã phù hộ cho mọi người trong gia đình, dòng họ luôn được mạnh khỏe, làm được nhiều ruộng nương, lúa gạo, nuôi trâu, bò, lợn, gà... nhanh lớn, mọi công việc làm ăn thuận lợi, phát triển; anh em con cháu trong dòng họ gần gũi, chia sẻ những khó khăn, vui buồn trong cuộc sống; thắt chặt tình đoàn kết gắn bó; đồng thời nhắc nhở, răn dạy con cháu luôn nhớ về tổ tiên, cội nguồn của dân tộc mình.

Theo phong tục, lễ hội Pang Phoóng được tổ chức trong 2 ngày, vào tháng 11 hoặc 12 dương lịch, các ngày đó không trùng với ngày mất của ông, bà, bố mẹ, và thường là ngày rằm vì ngày rằm có trăng sáng, đồng bào có thể tham gia các hoạt động lễ hội kéo dài cả ngày lẫn đêm.

Trong việc thực hiện các nghi lễ nói chung, lễ Pang Phoóng nói riêng, thầy cúng (người dân tộc Kháng còn gọi là Mựa tẹ á) có vị trí đặc biệt quan trọng, là người am hiểu về lễ, thực hiện cúng tế và là người đại diện cho dòng họ Lò Khul, có khả năng làm cầu nối giao tiếp với các thế lực siêu nhiên. Thầy còn là người am hiểu phong tục tập quán, biết làm theo cái lý của người xưa và trên tất cả thầy còn là ân nhân của nhiều người, thông qua các nghi lễ gắn với tập quán xã hội và tín ngưỡng của người Kháng được thầy cúng thực hành cho các gia đình trong cộng đồng.

Trong lễ Pang Phoóng, đầu tiên phải kể đến Lễ cúng tổ tiên. Để tổ chức lễ Pang Phoóng được đầy đủ, tươm tất, trước ngày tổ chức, chủ lễ (trưởng dòng họ Lò Khul) sắp mâm lễ vật để khấn báo tổ tiên về việc làm lễ Pang Phoóng. Theo quan niệm về tổ tiên của người Kháng gồm có 4 đời: cha, ông, cụ, kỵ. Do đó, đồ lễ trong các nghi lễ cúng, bao giờ cũng được bày 4 suất để cho 4 thế hệ tổ tiên cùng hưởng lễ. Mâm lễ gồm có thịt gà, cá, thịt lợn, cơm nếp, rượu... tất cả đều được làm chín. Trước khi cúng, người chủ lễ mở một tấm ván trong gian thờ để mời tổ tiên vào nhà. Trong gian thờ, ngoài chủ lễ, thầy cúng còn có một người con gái là con của chủ lễ có nhiệm vụ rót rượu cúng trong suốt quá trình làm lễ. Sau đó ông cùng anh em trong họ dọn dẹp nhà cửa, lên rừng lấy cây sung rừng (mắc chắc), hoa mào gà (bảnh cảng hoong só), cây mía rừng (mía phan), ống nứa (bẳng om)… để trang trí gian thờ tổ tiên.

Cây sung rừng, hoa mào gà, cây mía rừng, ống nứa… dùng trang trí gian thờ tổ tiên

Cây sung đất sống trên rừng với mong muốn tổ tiên phù hộ cho lúa ngô luôn xanh tốt giống như cây này. Hoa mào gà thường được người Kháng gieo, trồng trên đầu nương lúa. Một số đồng bào người Kháng cho rằng, cây hoa mào gà là cây bảo vệ nương rẫy của đồng bào. Do vậy, khi gieo lúa trên nương, đồng bào thường gieo thêm một ít cây hoa mào gà trên đầu và hai bên cạnh nương; quan niệm của đồng bào cho rằng làm như vậy thì hạt lúa gieo xuống sẽ nảy mầm nhanh và phát triển tốt, cho năng suất cao hơn. Khi hoa mào gà nở cũng là thời điểm người Kháng chuẩn bị bước vào vụ thu hoạch lúa nương. Khi thu hoạch lúa nương, đồng bào thu hoạch luôn hạt hoa mào gà đem về bảo quản để giữ giống cho năm sau.

Sau khi khấn báo tổ tiên để làm lễ Pang Phoóng, người Kháng chuẩn bị các lễ vật cho ngày tổ chức chính, gồm: khoai lang (quai hó), khoai sọ (quai kho), bí đỏ (pe ử), bí đao (pe pén), chuối (tỷ), hoa chuối (le đửa), bắp ngô (nung lý), bó rơm (piếng), quả đu đủ (pe hoỏng), cơm nếp (mả dum), cốm (mả giủn), chum rượu cần (hay kha xả), cần để uống rượu (bửa khạ), chiêng (le cong), cơm nếp (mả dum), đó là thành quả lao động sản xuất của dòng họ Lò Khul dâng lên tổ tiên.

Đặc biệt lễ vật dâng cúng tổ tiên phải có rượu cần (kha xả) đây là một trong những lễ vật không thể thiếu trong lễ cúng Pang Phoóng. Tùy theo lượng người tham dự, khách mời mà trưởng họ phải chuẩn bị số lượng bình rượu cho đủ. Theo phong tục của người Kháng, trưởng họ phải chuẩn bị được ít nhất ba bình rượu cần: Một bình cho tổ tiên nhà nội, một bình dành cho tổ tiên nhà ngoại và một bình dành cho anh em trong họ.

Đúng ngày làm lễ, ngoài những lễ vật nói trên được sắp xếp trong gian thờ tổ tiên còn có thêm 3 cái bát (quen đưng), 1 con dao (mạc phạ), 1 con gà sống (diên), 1 con lợn (ẹc), 1 chậu đựng nước (ảng om), 1 can nước để đổ vào các hũ rựợu cần, 1 cái chiêng đồng (lé ma nạ) và 1 đôi chũm chọe (lé xẻng) đặt trên bàn thờ - chiêng đồng và chũm choẹ là những nhạc cụ được thầy cúng sử dụng trong quá trình làm lễ.

Trưởng họ cùng thầy cúng ngồi trước mâm lễ vật làm lễ cúng dâng tổ tiên. Trước khi cúng, thầy cúng gõ 3 hồi chiêng với ý nghĩa khấn báo cho tổ tiên biết gia đình đã thu hoạch xong mùa vụ, lúa đã xếp đầy nhà, con cháu nhờ ơn ông bà tổ tiên, xin phép tổ tiên cho gia đình được tổ chức lễ Pang Phoóng để mời tổ tiên về nhận lễ, phù hộ cho con cháu trong gia đình và dòng họ được mạnh khỏe mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu.

Sau đó anh em trong dòng họ Lò Khul lần lượt vào gian thờ để mời rượu tổ tiên. Khi chủ nhà, thầy cúng và các thành viên trong dòng họ đã tiến hành xong nghi lễ, tiếp theo đem các con vật hiến tế vào vị trí đặt mâm cúng (khọ lọ hoỏng) gồm: một con lợn, một con gà nhờ thầy cúng tiến hành nghi thức xin phép tổ tiên, dòng họ Lò Khul, cho phép con cháu được dâng các con vật hiến tế và giết mổ trước sự chứng kiến của tổ tiên. 

Khi thầy cúng đã thực hiện xong nghi thức hiến tế, trưởng họ giao toàn bộ đồ hiến tế cho những người giúp việc, đem đi chế biến và chuẩn bị mâm cúng. Lễ vật được nấu chín, trưởng họ cùng thầy cúng đi chặt thêm một cành mắc chắc và lấy những gốc rạ để làm đũa cúng tổ tiên. Dòng họ thờ bao nhiêu người phải làm bấy nhiêu đôi đũa.

Khi mọi vật đã chuẩn bị xong, thầy cúng cùng vợ của mình và chủ nhà đến ngồi ngay ngắn trước bàn thờ tổ tiên. Hai mâm cúng lần lượt được bê vào đặt lên gian thờ. Mâm thứ nhất được đặt lên gồm có: thịt lợn, tiết canh. Thầy cúng đọc lời khấn mời tổ tiên về dự lễ, hưởng các lễ vật và phù hộ cho mọi người trong dòng họ được khỏe mạnh, làm ăn phát đạt.

Mâm lễ thứ hai được đặt trước gian thờ, gồm: thịt gà luộc để nguyên con, gói xôi, cá nướng, bánh chưng, khoai, bí… Thầy cúng bày lá mắc chắc trên một tấm phên nhỏ, lần lượt chia đều mỗi thứ đồ cúng một ít vào trong lá mắc chắc (gia đình thờ bao nhiêu người thì chia thành bấy nhiêu phần).

Chia xong, thầy cúng đặt lên mỗi phần một đôi đũa (làm bằng gốc rạ đã chuẩn bị trước) rồi khấn mời các tổ tiên nhận lễ, kể tên các lễ vật đã chia phần cho tổ tiên, cầu xin tổ tiên phù hộ con cháu trong dòng họ khỏe mạnh, vụ sau trồng được nhiều thóc ngô, nuôi được nhiều lợn gà để dòng họ lại làm lễ Pang Phoóng tạ ơn tổ tiên. Vừa cúng thầy vừa gõ chiêng làm nhịp cho từng câu. Kết thúc bài khấn, thầy gõ một hồi chuông dài, vợ thầy là người phụ giúp, bà gõ chũm chọe và nhảy múa trước ban thờ.

Lễ cúng thần đất 

Múa điệu Tăng bu (Xék pang) trong ngày làm lễ Pang Phoóng

Trong ngày làm lễ Pang Phoóng, người Kháng thường múa điệu Tăng bu (Xék pang). Điệu múa này tạo nên những âm thanh lớn, có thể ảnh hưởng đến thần đất và ma bản- theo quan niệm dân gian của đồng bào. Vì vậy phải khấn để trình báo và xin phép thần đất và ma bản cho phép dòng họ và dân bản được múa điệu “Xék pang”. Mâm lễ cúng gồm có gà, cá, khoai lang, xôi cốm và xôi cẩm, một ít bí đỏ, một chai rượu và hai cái chén.

Khi cúng, thầy cúng, trưởng họ gõ chiêng đánh thức thần đất dậy và mời gọi ma bản về dự, thầy khấn báo, dâng lễ vật và cầu xin phù hộ cho mọi người múa điệu “Xék Pang” được suôn sẻ, vui vẻ. Vừa khấn, thầy cúng vừa hất hai chén rượu và mỗi thứ lễ vật một ít ra xung quanh ngụ ý mời thần đất và ma bản về nhận lễ.

Sau khi đã hoàn tất các nghi thức cúng tổ tiên, ma nhà, thần đất, ma bản. Chủ nhà dọn cơm mời mọi người, cùng nhau nâng chén rượu mừng lễ Pang Phóong diễn ra thuận lợi, thành công với những lời chúc tốt đẹp dành cho nhau. Khi men rượu đã ngấm, cũng là lúc họ vui vẻ đắm mình vào các điệu múa dân gian, những trò chơi truyền thống của đồng bào.

Nếu Pang Phoóng nghiêm trang trong phần lễ thì lại rất phóng khoáng, vui vẻ xum vầy trong phần hội. Phần hội được tổ chức ngay trong nhà của trưởng họ. Để khai hội, các cụ lớn tuổi trong dòng họ sẽ gõ tiếng chiêng và tiếng chum chọe đầu tiên. Sau khi âm thanh của các loại nhạc cụ này vang lên, người trong dòng họ quây quần thành vòng tròn giữa sàn nhà, cùng vui điệu múa Tăng bu (Xék pang). Từ già đến trẻ, mỗi người cầm theo một ống tre dài hơn 1m cùng di chuyển theo vòng tròn, vừa gõ nhịp xuống sàn nhà, hòa mình trong điệu múa mô phỏng cách điệu hình thức chọc lỗ tra hạt trên nương. Cùng với điệu múa Tăng bu (Xék pang), đồng bào còn tổ chức một số điệu múa như: tăm đao (Tỏi điểng), múa sạp (xék loong), múa xòe (xék vong) và tổ chức hát dân ca; tổ chức một số trò chơi dân gian như: đẩy gậy, tung còn, đánh cầu lông gà, kéo co.

Điệu múa Tăm đao (Tỏi điểng) của dân tộc Kháng

Dù trải qua biết bao biến cố thăng trầm của lịch sử, sự giao lưu, hòa nhập cộng đồng nhưng lễ hội Pang Phoóng của dân tộc Kháng, dòng họ Lò Khul vẫn giữ được bản sắc riêng, luôn hiện hữu trong đời sống cộng đồng. Lễ hội Pang Phoóng là thông điệp kết nối quá khứ với hiện tại, là sợi dây tạo lên sự gắn kết cộng đồng.

Năm 2020, lễ Pang Phoóng (Tạ ơn) của người Kháng, xã Rạng Đông, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên đã được Bộ VHTTDL đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

ĐĂNG NGUYÊN - Ảnh: TUẤN MINH

 

 

;