Có những đêm sâu khó ngủ ở thị thành, tôi ngồi lặng cảm nhận từng giọt thời gian nhỏ xuống lòng mình. Và như có một đôi cánh kỳ lạ nào đưa tôi bay về với những ngày thơ ấu ở quê hương. Từng kỷ niệm như thước phim quay chậm bỗng hiện hình trong tâm tưởng tôi những dáng nét thân quen của làng quê và những con người đã gắn bó từ cái thời xa thẳm…
Tôi bỗng hiểu vì sao thuở xa xưa làng tôi có tên là làng Hoa Lũy. Đấy là cái tên đẹp đẽ, gắn với một xứ sở thơ mộng, diễm kiều mà tổ tiên để lại cho người đời sau. Nhưng cái tên ấy giờ cũng đã thành dĩ vãng sau bao biến thiên dâu bể của cuộc đời.
Tôi nhớ đến mẹ tôi thuở sinh thời tần tảo. Mẹ tôi mồ côi cha từ tuổi lên mười. Bà ngoại tôi làm lụng vất vả nuôi năm người con khôn lớn. Mẹ tôi là con thứ, xinh đẹp, đoan trang bậc nhất trong làng. Lớn lên trong cảnh nghèo, mẹ tôi chuyên cần, nền nã, đằm thắm, ai gặp cũng mến, cũng yêu…
Ghì néo lòng tôi là hình ảnh quê xưa, một làng nghèo trước biển sau sông, tách biệt với những nơi phồn hoa đô hội. Từ làng lên huyện có một con đường độc đạo, qua một bến đò quê. Những ngày chợ phiên, hoặc những ngày giáp Tết, các chuyến đò thường đông và nhiều khi nước tràn vào cả trong nên phải vừa chèo đò vừa tát nước. Trong một lần đắm đò, đang vật lộn giữa dòng nước xiết, mẹ tôi may mắn được cha tôi vớt lên. Hai người yêu nhau từ đó và nên duyên vợ chồng, sinh ra anh chị em chúng tôi. Cha tôi vốn là con một gia đình nho học, lớn lên có làm cán bộ thoát ly một thời gian rồi về công tác ở địa phương, góp công cải tạo vùng quê nghèo trở thành một vùng ổn định về kinh tế.
Vào những năm cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, làng tôi nghèo lắm nhưng đẹp một cách lạ lùng.
Hồi ấy, hai bên đường lớn bao quanh làng ken kín những hàng tre, ruối tạo nên một bức thành lũy. Phía sát biển là rừng phi lao và rừng dừa, ven con sông Vích là rừng sú vẹt chắn gió chắn sóng. Trong làng những ruộng dâu, những vườn cau, những thảm lá trầu đan bện như bức vách hoặc những vườn chanh, vườn bưởi, vườn cam… tất cả tạo thành một không gian xanh trù phú và đầy sức sống.
Nhà tôi ở ngay con đường lớn trung tâm của làng. Tôi thường lẫm chẫm đi bộ đến trường mỗi sáng. Vừa đi có khi còn dừng lại ngắt hoa và nghe chim hót. Trường lợp ngói âm dương đã ngả màu mận chín. Các phòng học thấp và tối. Sân trường rợp bóng cây. Tôi còn nhớ rõ cây phượng già cao lừng lững mỗi mùa hè lại trổ hàng ngàn, hàng vạn bông hoa đỏ, từ xa trông lại như một bó đuốc khổng lồ đang rực cháy. Nhiều cây vông cổ thụ cao vút, tỏa ra những cành sum suê xanh đậm. Nhiều cây bàng được trồng thành hàng thẳng tắp chìa ra những cành xanh như những cánh tay vẫy vẫy khi gió đến.
Từ trục đường chính, nhiều con đường nhỏ tỏa ra khắp nơi trong làng. Hồi ấy, đường làng tôi chỉ là những lối mòn trên đất cát. Hai bên đường là những bụi tre, bụi ruối, phi lao ken dày như những bức tường thành. Ban ngày nắng to đã có bóng cây che mát. Ban đêm tối đen tĩnh lặng thỉnh thoảng mới lóe lên những tia đèn pin của người đi bộ hoặc những tia sáng mỏng manh từ những chiếc xe đạp thỉnh thoảng lại vụt qua. Hai bên đường những ngôi nhà thấp tè, lợp ngói âm dương, hoặc lợp tranh rạ hay lá mía giữa các khu vườn um tùm.
Giữa làng tôi là một cây gạo cổ thụ cao vút được ví như cái nóc của làng. Không ai biết rõ cây gạo có từ bao giờ. Người dân làng truyền nhau rằng nó đã có mặt như một chứng nhân của làng từ hơn một thế kỷ. Chuyện kể rằng những người dân chài lưới từ ngoài khơi xa, trước đây thường nhìn ngọn cây phượng như một ngọn hải đăng để làm chuẩn trở về sau những ngày bám biển.
Ngày ấy ở làng tôi chim nhiều lắm. Trên cánh đồng, từng đàn cò trắng bay lượn trong ánh chiều tà. Những đàn chim sẻ ríu ran trên các cành cây. Trong ký ức của tôi còn có cả những con chim công, chim phượng từ đâu bay về lượn vòng quanh làng rồi đỗ trên những cành cây cổ thụ. Vào những ngày cuối Thu đầu Đông là dịp những đàn chim từ phương xa đi tránh rét vượt biển bay vào làng. Chúng sà ngay xuống rừng phi lao ven biển, rồi từ đó tỏa dần về phương nam. Cùng với những đứa trẻ trong làng, tôi cũng thường bỏ nhà đi ngắm những đàn chim bay lia thia trong ánh chiều tà hoặc rải nhựa bắt chim mỗi buổi bình minh. Chim nhiều không kể xiết. Mỗi loài lại có những nét riêng: hiền hậu xinh đẹp hót hay như vàng anh; sặc sỡ và có cái mỏ dài, gọi lớn như chim trả; nhanh nhẹn như chèo bẻo; hung dữ như chim cắt…
Ở quê tôi, người dân làm nhiều nghề để sinh sống, trong đó chủ yếu là nghề trồng dâu nuôi tằm, nghề đánh cá biển và làm muối.
Trong ký ức của tôi không thể nào phai nhòa được hình ảnh những con tằm ăn rỗi. Khi lá dâu vừa rải xuống nong, hàng trăm, hàng ngàn con tằm liền nhào tới gặm cho đến lúc chỉ còn trơ ra những gân lá cứng queo, chìa ra như những chiếc xương cá nhỏ; phải lắng tai một chút ta mới có thể cảm nhận hết cái âm thanh rào rào, miên man, có khi bỗng chìm lắng rồi lại trồi lên như tiếng nhạc vừa huyền bí lại quyến rũ lạ thừng. Tôi đã đứng hàng giờ xem tằm ăn rỗi như thế và đợi tằm chín, cả thân hình chúng chuyển dần sang màu hồng và bắt đầu nhả tơ, làm kén.
Tôi nhớ mẹ tôi ngồi rút tơ mỗi sáng, khi ánh nắng hồng buông trải trong không gian xanh ngắt của khu vườn, tiếng ống trúc rung ngân, réo rắt như tiếng nhạc làng quê. Tôi nhớ những lọn tơ trắng muốt hoặc vàng hoe được hong khô trong mẹt ngoài sân những buổi trưa nắng đậm, và nhớ tiếng quây tơ kẽo kẹt dưới ánh trăng vàng.
Nếu phần lớn phụ nữ trồng dâu nuôi tằm thì đàn ông trong làng tôi phần lớn lại làm nghề chài lưới. Từ nhỏ tôi đã quen với cảnh đan lưới, vá lưới, gắn phao, cặp chì trên từng tấm lưới. Cảnh hong lưới sau mỗi chuyến ra khơi. Trên bờ biển những con thuyền cập bến lúc hừng đông náo nhiệt. Những con thuyền nằm nghỉ ngơi trên cát trong tiếng sóng vỗ rì rầm… Tôi nhớ như in những gương mặt sạm đen nắng gió của ngư dân, những con người lực lưỡng can trường không ngại chi bão tố hiểm nguy mỗi chuyến ra khơi.
Tôi không rõ nghề làm muối quê tôi có tự bao giờ. Nhưng tôi được cha tôi kể lại rằng: những ruộng muối hiện nay được xây dựng phẳng lỳ trài tít tắp với những ô muối sạch đẹp trắng tinh phần lớn được xây dựng vào những năm bảy mươi của thế kỷ trước. Chính cha tôi là một trong những người góp công xây dựng và đã thuê máy ủi về san lấp làm nên khu đồng muối này. Có vẻ như nghề muối không phải nghề chính ở làng, nhưng đã thu hút hàng trăm lao động. Nghề muối cũng là một nghề vất vả nặng nhọc, bởi những lúc nắng to như đổ lửa, gió lào quất những cơn nóng hầm hập thì người làm muối phải trằn mình giữa nắng làm việc luôn tay để lóng và chắt nước mặn, phơi muối, giẫy muối… Từ những gáo nước mặn đầu tiên đổ lên khuông phơi đến những viên muối trắng tinh là cả một hành trình vất vả, thấm đẫm mồ hôi của người làm muối.
Vất vả thế, vật lộn với cuộc mưu sinh đi qua những năm tháng đói nghèo trong và sau chiến tranh, nhưng người dân quê tôi lúc nào cũng hồn hậu yêu đời, yêu văn nghệ. Mỗi khi tết đến xuân về, các cụ già râu tóc trắng thường làm thơ xuân và ngồi bên nhau nhấp chén rượu xuân, cùng đàm đạo. Trong làng, có một người mê đắm đàn bầu và tiếng đàn của ông đêm đêm lại ngân lên du dương, êm dịu trong cái thanh tĩnh lạ lùng của làng quê. Sau này, khi lớn lên, trước khi chia tay nhau vào đại học hoặc tỏa đi làm việc khắp mọi miền đất nước, đám bạn bè tôi thường tụ họp những tối thứ bảy bên chiếc ghi ta và hát say sưa những bài hát tình yêu.
Như một thoáng chốc, thế mà đã ba mươi lăm năm từ thuở tôi rời xa làng đi ra chốn thị thành. Thời đổi mới, hội nhập đã mang lại sự no đủ cho biết bao con người. Những luồng văn hóa mới từ khắp hành tinh dội lại như một dòng thác lũ. Gương mặt làng quê đã nhào nặn lại. Bây giờ điện sáng thâu đêm. Tiếng nhạc Tây xập xình trong những quán café rực rỡ ánh đèn màu. Ô tô đỗ kín dọc con đường lớn. Không còn cây gạo cổ thụ xưa. Không còn những bụi ruối, hàng cau, những vườn cam sai quả trong làng, nhà cửa san sát, quán hàng chưng ra không biết cơ man nào là hàng hóa.
Mỗi lần về quê, lòng tôi không khỏi vui mừng cuộc sống ngày càng thay da đổi thịt, nhưng cũng không khỏi ngậm ngùi khi vẻ đẹp xưa đã mất. Tôi về không gặp lại lớp người thân thiết thưở xưa. Bà tôi, mẹ tôi, dì tôi, cậu tôi, bác tôi… đã về thế giới nào xa thẳm. Những câu bạn học trò bạn tôi, nghịch như quỷ sứ ngày xưa giờ tóc đã điểm bạc, vết thời gian đã in hằn trên gương mặt ngang dọc nếp nhăn. Lớp người sau thì đã lớn, gặp nhau họ chỉ nói chuyện học hành và những mơ ước xa xăm…Không ít lần tôi đứng lặng bên bến đò xưa giờ đã thành cây cầu lớn và nhớ lại câu chuyện đắm đò của cha mẹ tôi. Đi dọc bờ đê và nhớ lại những kỷ niệm một thời thơ ấu, nơi dấu chân tôi đã in hằn trên con đường nhỏ ngoằn ngoèo, hoặc đứng trước biển để cảm nhận cái mênh mông vô tận của đất trời. Tôi muốn gọi tên cái làng cũ của tôi, gọi tên những người thân yêu đã hóa thân vào hoa cỏ. Và bỗng nhiên, từ đâu đó quanh tôi như ngân vang một tiếng vọng. Một tiếng vọng huyền bí, sâu trầm và da diết xao động tim tôi…
THIÊN SƠN
Nguồn: Tạp chí VHNT số 595, tháng 1-2025