Nhà văn Nguyên Hồng (1918-1982)
“Gái Đen chết rồi, các vị ah” Huhuhu! Nguyên Hồng dàn giụa nước mắt, tiến về phía cửa sổ gian phòng, bỏ cặp kính lão ra, lau lau vào vạt áo nâu sồng. Trong khi đó, bọn học sinh chúng tôi sững sờ ngạc nhiên, không hiểu chuyện gì xảy ra. Sau này mọi người mới biết, “Gái Đen” là nhân vật trong tiểu thuyết Cửa biển của chính nhà văn Nguyên Hồng tạo dựng nên - một thiếu nữ đã bị xã hội “nửa phong kiến nửa thực dân” của Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám 1945 vùi dập.
Nhà văn của những "thân phận"
Sinh năm 1918, ở Nam Định, trong một gia đình sống chật vật cả về vật chất lẫn tinh thần do hoàn cảnh trắc trở, Nguyên Hồng đã phần nào chứng kiến được những nỗi thống khổ của gia đình. Năm Nguyên Hồng 12 tuổi, ông bố nghiện hút chết vì bệnh lao, còn mẹ thì đi bước nữa, nhà văn tương lai buộc phải sống với bà nội và cô ruột. Và đến khi 16 tuổi, học xong trung học, Nguyên Hồng cùng mẹ từ quê ra đất Hải Phòng, tá túc tại xóm Cấm của làng Gia Viên vốn nổi tiếng là khu “ổ chuột” của những sinh dân cùng khổ.
Giai đoạn trước 1945, nhiều nông dân hoặc không có ruộng đất hoặc đã phải bán ngôi nhà hay mảnh đất cuối cùng của mình để gán nợ, chạy kiện, lo sưu thuế, lo việc v.v và do đó, trở thành vô sản theo đúng nghĩa của nó. Họ phải từ bỏ nơi chôn rau cắt rốn của mình để ra chốn đô thị tìm nguồn sống. Vì thế, nằm ở rìa nội đô Hải Phòng, xóm Cấm là nơi được nhiều người dân quê đã bị “bần cùng hóa” chọn làm bến đỗ tạm thời và cũng nhiều người trong số họ bị ‘lưu manh hóa’ bởi cuộc sống đô thị thời thực dân. Xóm Cấm là nơi tụ tập của những anh kéo xe, người ở, những tay đòi nợ thuê, người gánh nước thuê, khâu vá thuê, những tay ‘anh chị’ giang hồ, gái nhảy, gái điếm v.v. Nhận ra thiên chức của bản thân, Nguyên Hồng đã chọn nghề viết văn để mưu sinh trong khi mẹ ông thì buôn thúng bán mẹt kiểu “cò con”. Nguyên Hồng đã phải viết cuốn tiểu thuyết đầu tay sáng giá của mình là Bỉ vỏ (1937 - 1938) trong một căn nhà dột nát, bên khung cửa sổ nhìn ra vũng nước đen sì của bãi đất người ta đang lấp dở, bên cạnh một cái chuồng lợn hôi hám, bẩn thỉu. Ông viết trong tiếng eo sèo, gắt gỏng, cãi cọ vợ chồng, đánh mắng con cái; tiếng ồn ào những gánh rau gánh đậu, tiếng xe cộ, tiếng chó gà, tiếng thùng chậu xủng xoảng, tiếng tranh giành của người xếp hàng lấy nước sạch từ vòi nước công cộng.
Tám Bính, nhân vật chính trong Bỉ vỏ là cô gái quê hiền lành, trong trắng, ngây thơ, nhưng hoàn cảnh sống và những biến cố ngoài ý muốn đã tha hóa cô trở thành một kẻ chuyên “móc túi” ở bến bãi, chợ búa, đường phố. Sống bến cạnh người chồng “gá tạm” là Năm Sài Gòn - trùm giang hồ đất Cảng, nhưng Tám Bính luôn khát khao về một cuộc sống thiện lương mà xã hội cũ không thể nào mang lại cho cô được. Ngòi bút của Nguyên Hồng thực sự thấm đẫm tình nhân ái đối với giới cần lao và đặc biệt là đối với phụ nữ và trẻ em. Bạn đọc cũng sẽ khó quên nhân vật cậu bé - hình bóng của chính Nguyên Hồng thời nhỏ - trong tiểu thuyết Những ngày thơ ấu (1938), phải kiếm sống nơi “đầu đường xó chợ” bằng đánh đáo, kết giao với lũ trẻ con lưu manh, đầu bò đầu bướu, sống vất vưởng ở vườn hoa, vòm chợ, bến bãi, thiếu tình thương của bố mẹ và của người thân.
Những năm 1936 -1939, Nguyên Hồng không chỉ viết cho báo chí, viết sách và dạy học để tồn tại, ông đã tìm cách liên lạc với những người cộng sản, say sưa đọc “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” và các tài liệu mác-xít, cũng như tác phẩm của M.Gorky từ nước Nga Xô viết được dịch ra tiếng Pháp viết về giai cấp vô sản. Ông tham gia Mặt trận Dân chủ và bị Pháp bắt vào tù, đầy lên Ban Mê (Hà Giang) một thời gian. Trong tù, Nguyên Hồng được giác ngộ cộng sản và ông quyết tâm gắn bó với Cách mạng khi tham gia vào tổ chức Văn hóa Cứu quốc năm 1943, cùng với các nhà văn Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Kim Lân. Ông đã đọc bản Đề cương về Văn hóa Việt Nam nổi tiếng như kim chỉ nam soi đường cho nền Văn nghệ Việt Nam trong khúc ngoặt lịch sử đầy biến động, đêm trước Cách mạng. Nguyên Hồng đã miêu tả xã hội cũ như một “buổi trưa nắng lóa hầm hập, một biển lửa mênh mông đang thiêu đốt hàng triệu con người! Đồng thời ông cũng dự cảm là những con người đó cần tìm thấy “một con đường, một chân trời êm mát tốt tươi qua những ngày mưa dầu nắng lửa”.
Quả thật, Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945 đã mở ra một khung trời Độc lập - Tự do cho dân tộc, trong đó các văn nghệ sĩ. Họ tìm thấy cảm hứng hào hùng, sôi nổi, tươi trẻ, phấn khởi từ bầu không khí do Cách mạng đem lại. Vào thời khắc đó, Nguyên Hồng đang ở Hà Nội - Thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới được Chủ tịch Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2-9-1945 và rồi sau đó, ông trở thành đảng viên Đảng Cộng sản.
Bản in đầu tiên của cuốn Dưới chân Cầu Mây
Nguyên Hồng đồng hành bền chặt cùng với người dân Việt trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ sau đấy, với những cảm hứng sáng tạo mới. Tuy sống ở ấp Cầu Đen, Bắc Giang (nay Bắc Ninh), nhưng ông được tín nhiệm cử làm Chủ tịch Hội Văn nghệ (Văn học-Nghệ thuật) Hải Phòng từ năm 1964 cho đến khi ông mất năm 1982.
Những năm sau kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và thống nhất đất nước (1975), chúng tôi đang học phổ thông. Rất thường xuyên, tôi bắt gặp nhà văn Nguyên Hồng đạp chiếc xe “con gấu” của Liên Xô nặng chình chịch lai cô con gái út - học cùng trường Thái Phiên với tôi - đi đi về về. Trên cái xe đạp, cũng thường xuyên có một chiếc cặp da to cũ kỹ căng phồng, với cái miệng cặp toác ra vì giấy tờ chất kín trong đó. Có vẻ chiếc cặp chứa bản thảo của bộ tiểu thuyết trường thiên Cửa Biển dài 4 tập, với hơn 2000 trang, viết về xã hội Việt Nam trên chặng đường đi tới đích giải phóng dân tộc giai đoạn trước năm 1945; hoặc giả đó là bản thảo bộ tiểu thuyết 2 tập Núi rừng Yên Thế viết về cuộc khởi nghĩa Hoàng Hoa Thám mà nhà văn đang viết dở chăng? (Khi ở tù năm 1940, Nguyên Hồng đã khởi thảo 300 trang viết cho cuốn Xóm cháy - đó là những trang viết đầu tiên cho bộ tiểu thuyết Cửa biển sau này, nhưng tiếc thay, bản thảo đã bị bọn mật thám Pháp tịch thu và tiêu hủy mất nên tác giả rất cẩn thận bảo quản bản thảo - thầy giáo chủ nhiệm lớp tôi nói vậy).
Nguyên Hồng trông vẫn như một lão “nông tri điền” hiền hậu đáng mến. Ông mặc bộ quầu áo nâu bạc phếch, đeo cái kính lão, mang chòm râu muối tiêu lưa thưa. Có lần tôi thấy ông về xóm Cấm, rẽ vào thăm nhà bác Đoàn Min, Chánh văn phòng Hội Văn nghệ Hải Phòng. Nhà tôi sát ngay bên cạnh nên qua khung cửa sổ, tôi thấy Nguyên Hồng trầm ngâm đi lại ngoài khu vườn mát rượi cây xanh và ao nước, trong tiêng chuông Nhà thờ xóm Cấm thong thả điểm giờ trưa, dáng vẻ trầm ngâm, suy tư rất hoài cổ - chắc ông đang sống lại với ký ức về một xóm nghèo ven đô, nơi đã chắp cánh văn chương cho ông từ khi còn rất trẻ, khi mới mười chín đôi mươi.
1. Tác phẩm Bỉ vỏ, một sáng tác làm nên tên tuổi của Nguyên Hồng
2. Bìa sách truyện ngắn Nguyên Hồng
Nhà văn đắm đuối với cái "đẹp"
Tác phẩm Nguyên Hồng thuộc dòng văn học hiện thực. Tuy nhiên khác với Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố là những cây bút hiện thực phê phán sắc sảo, trực diện tố cáo những thói hư tật xấu sản sinh ra từ trong lòng chế độ thực dân-phong kiến trước Cách mạng thì văn học hiện thực của Nguyên Hồng thấm đẫm tinh thần của chủ nghĩa nhân văn; thấm đẫm tình người và cái “thiên lương” (căn tính lương thiện bẩm sinh) trong con người.
Chúng tôi có một vinh hạnh lớn là đôi khi được đặc cách tham dự các buổi nói chuyện của Nguyên Hồng vốn chỉ dành cho một số thầy cô dạy văn ở phổ thông của thành phố (Hải Phòng), thường tổ chức ở trường phổ thông Ngô Quyền - nơi nhạc sĩ Văn Cao từng học. Ở các buổi gặp gỡ này, Nguyên Hồng nói về tác phẩm, hay nhân vật, hay hoàn cảnh sáng tác tác phẩm của mình. Các câu chuyện như vậy cực kỳ thú vị, hấp dẫn và gợi mở. Có lần, nhà văn đọc trích đoạn trong tiểu thuyết Sóng Gầm (Tập I, bộ Cửa Biển), bỗng dưng ông bật khóc rưng rức khi đến đoạn nhân vật Huệ Chi tự tử vì bị ép lấy một viên tướng Nhật để cứu mạng sống cho cả gia đình.
Nguyên Hồng sụt sùi kể, ông gửi thư cho con gái đang học ở Anh quốc để nói việc ông phải đau buồn, thẫn thờ như người mất hồn đến mấy ngày khi để cho Huệ Chi phải ra đi. Cô con gái ông van nài: “Bố ơi, bố đừng để Huệ Chi phải chết! Bố hãy cứu lấy cô ấy! Con thương cô ấy lắm!” Nhà văn suy nghĩ mông lung một thời gian rồi ông cương quyết: “ Không thể được! Một thiếu nữ hiền lành, trong trắng, ngoan đạo, tình cảm như vậy không thể sống chung với quân xâm lược, không thể sống trong ô uế, tủi nhục như vậy được! Cô ấy phải tự tử để giữ lại hình ảnh tốt đẹp trong lòng mọi người!” Như vậy, Huệ Chi chết để cho cái Đẹp của nhân phẩm, của “Thiện căn” sống mãi!
Lần khác, Nguyên Hồng giảng cho cử tọa nghe vẻ Đẹp sâu sắc của tiếng Việt, thứ “tiếng nói do ông bà để lại”. Để diễn tả mối sầu khổ trong cảnh biệt ly giữa người vợ trẻ và anh chồng sắp ra chiến trận cứ lớn dần lên theo độ dài của con đường đất, khuất trong nương dâu, Đặng Trần Côn (1705-1745) viết;
“Tương kiến bất tương thức
Thanh thanh mạch thượng tang
Mạch thượng tang,
Mạch thượng tang,
Thiếp ý quân tâm thùy đoản tràng?”
Tác giả đã dùng hình thức lặp từ “Mạch thượng tang” 3 lần để diễn tả cái bóng người chinh phu nhỏ dần khi xuyên qua các nương dâu nối tiếp nhau để ra chiến trận. Nhưng khi dịch đoạn thơ này ra tiếng Việt, nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1748) viết:
“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu XANH NGẮT một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ?”
Chỉ bằng một vài từ điểm xuyết như vậy mà lột tả được thần thái của nguyên bản. Cái mầu Xanh Ngắt đó cho thấy không gian mênh mông thực thể đồng thời cũng là không gian của sự chia cắt, chia lìa, của ly biệt giữa những người thân yêu mà do chiến tranh gây ra.
Bất giác, khán phòng trầm hẳn xuống vì những tiếng sụt sịt của chính diễn giả và người nghe đang thả hồn vào đoạn thơ của “Chinh phụ ngâm khúc”. Ngoài sân trường, hoa phượng cũng chói lên màu đỏ - thứ màu đỏ của nước mắt ngày biệt ly…
Ký ức chấm phá của chúng tôi về một nhà văn Nguyên Hồng tinh tế và sâu sắc là như vậy. Trong những ngày kỷ niệm trọng đại này, với di sản thành văn đồ sộ mà ông để lại gồm nhiều thể loại và nhiều trang viết, Nguyên Hồng xứng đáng được tưởng nhớ như một trong các tác gia xuất sắc xây dựng nên nền văn học hiện đại Việt Nam - các nhà văn đã gắn bó máu thịt với nhân dân, với sự nghiệp Cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước và với hoài bão cao cả về xã hội hạnh phúc, thịnh vượng cho tương lai.
TRẦN ĐOÀN LÂM
Nguồn: Tạp chí VHNT số 617, tháng 8-2025