Vào hai ngày 4 - 5/1/2025, Sở VHTT tỉnh Bình Định đã phối hợp với Viện Nghiên cứu Văn hóa tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế “Bảo vệ, phát huy di sản văn hóa phi vật thể và Võ cổ truyền Bình Định”. Hội thảo nhằm tập hợp ý kiến chuyên gia, các nhà nghiên cứu về di sản văn hóa phi vật thể phục vụ cho việc hoàn thiện hồ sơ Võ cổ truyền Bình Định đệ trình UNESCO xem xét ghi vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Nhân sự kiện này, chúng tôi xin được gửi tới quý bạn đọc chuyện thú vị về trường thi tiến sĩ võ ngày xưa ở đất võ.
Tổ chức gặp mặt võ nhân - võ sư Bình Định - Ảnh tư liệu
Thi tiến sĩ võ chọn “võ tướng”
Theo lịch sử Việt Nam, các thời nhà Lý, nhà Lê đều có tổ chức thi tuyển quan võ nhưng phần lớn tổ chức tại thủ đô Thăng Long (Hà Nội). Riêng Triều đình nhà Nguyễn, năm thứ 17, Vua Minh Mạng đã mở khoa thi đầu tiên tại ba địa điểm gồm: Huế, Hà Nội, và Thanh Hóa. Mục đích thi Tiến sĩ võ là để tuyển chọn người tài phục vụ cho triều đình. Giống như thi văn, người tham gia thi võ cũng trải qua ba kỳ thi lần lượt từ thấp đến cao gồm: thi Hương võ, thi Hội võ và thi Đình – người đứng đầu kỳ thi sẽ được nhà vua phong tước vị tiến sĩ võ. Bên cạnh đó, triều đình còn tổ chức những kỳ thi đặc biệt để lựa chọn những bậc cao thủ võ nghệ tuyệt luân, có thể cầm quân đánh giặc ngoại xâm.
Vào năm 1867, do yêu cầu cấp thiết đào tạo những võ tướng, Vua Tự Đức đã cho mở thêm tại huyện An Nhơn (Bình Định) một trường thi Tiến sĩ võ. Đây là vùng đất nổi tiếng có nhiều anh hùng hào kiệt và là vùng đất thượng võ nổi tiếng với làng võ An Thái.
Trường thi võ Bình Định, khi mới thành lập, triều đình có ý định tổ chức giống như ba trường võ ở Huế, Thanh Hóa và Hà Nội, nghĩa là cũng có đủ cả thi Hương, thi Hội, thi Đình để chọn tú tài võ, Cử nhân võ và Tiến sĩ võ. Tuy vậy, sau này Trường thi võ Bình Định không thể tổ chức thi tuyển Tiến sĩ võ (tạo sĩ) vì Tiến sĩ võ theo quy định phải là người được phong chức Chỉ huy (Tướng quân) và là người “văn võ song toàn”; ngoài tài võ nghệ còn có tài cao học rộng. Điều kiện để thi lên Tiến sĩ võ buộc các võ kinh phải giỏi các môn thao lược, binh thư, đồ trận, huấn luyện và tổ chức quân đội.
Khóa quan võ đầu tiên tổ chức tại Trường võ Bình Định chỉ lấy được đủ số quan võ bậc Cử nhân. Rất ít người có đủ tiêu chuẩn để thi lên Tiến sĩ võ nên triều đình không thể mở tiếp kỳ thi Hội. Các thí sinh võ Bình Định phải tập trung về Huế để thi tiếp. Khóa thứ hai cũng vậy và mặc nhiên Trường thi võ Bình Định trở thành trường thi chức quan võ Cử nhân. Mặt khác, cũng do thiếu cả người có đủ tư cách và tài năng làm giám khảo vì số đủ tài năng rất ít, chỉ đủ tập trung chấm thi tại kinh đô Huế.
Kỳ thi võ năm Mậu Dần (1878) được tác giả Tiêu Đàm mô tả trong Tri Tân tạp chí, số 2, ra ngày 10/6/1941 kể rằng: Khoa thi võ năm Mậu Dần (1878). "Năm ấy, niên hiệu Tự Đức 31 (1878) nhân ngũ tuần đức Dục Tôn và thất tuần đức Từ Dụ Hoàng Thái hậu, triều đình mở ân khoa thi Văn và thi Võ tại Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên Huế và các tỉnh Bắc Thành (Hà Nội).
Ở Hà Nội, sau khi trường thi văn xướng danh là ngày mồng một tháng một, đến lượt các võ thí sinh sửa soạn vào trường. Trước khi thi một ngày, các quan tiến trường. Rồi hôm sau, mờ đất, đầu trống canh tư, sau những hồi trống dõng dạc, dưới những ánh linh điệu sáng rực, các quan trường, mũ áo tề chỉnh, che lọng, ngồi trên các hàng ghế ngay cửa chính. Lại phòng gọi danh sách các võ thí sinh vào trường.
Khoa này Chánh chủ khảo là ông Lê Trực, Tạo sĩ xuất thân, lãnh binh tỉnh Hà Nội và Phó chủ khảo là ông Bùi Ủng, Binh bộ Tả Thị Lang do triều đình Huế cử ra cùng với các quan Phúc, Sơ, Phân, Giám. Thí sinh có ngót 8.000 người, phần đông là các tỉnh: Hà Nội, Bắc Ninh, Sơn Tây, Hải Dương, Ninh Bình, Hưng Yên.
Sáng sớm, Chánh chủ khảo Lê Trực cho gọi hết các thí sinh vào trường. Khác với thi Văn, võ sinh chỉ vào người không, không mang theo gọng, lều bạt, ống quyển, vì suốt trong các ngày thi, các thí sinh đều đứng giữa trời, mặc mưa gió. Lúc vào thi được phép cởi áo dài, chỉ mặc áo ngắn (áo mã khoa). Đến kỳ đấu roi thì cởi trần, chỉ mặc một cái quần. Cởi trần để dễ thấy ngay, nếu trúng roi trong thi đấu thì có chấm mực. Khi thi, bốn cửa trường đều đóng chặt. Trong ngoài có đội thể sát và lính tuần canh rất nghiêm ngặt.
Khóa thi “Tiến sĩ võ” ở Bình Định năm 1878 (Mậu Dần)
Ròng rã suốt cả tháng, cứ cách ba ngày lại một ngày thi. Ai có điểm ưu bình kỳ đệ nhất mới được vào kỳ đệ nhị; kỳ đệ tam, kỳ đệ tứ cũng thế, kỳ đệ ngũ là phúc hạch. Số trúng cách còn độ 120 người sau các kỳ chọn lọc. Trong khoa này, các kỳ thi có những món võ nghệ như: Kỳ đệ nhất: xách quả tạ nặng 100 cân, hai tay xách hai quả. Có người khỏe thì cắn thêm một quả. Đi được 20 trượng là thứ, 30 trượng đạt bình, 36, 40 trượng đạt ưu. Thi múa côn sắt, côn nặng bằng 36 quan tiền kẽm, đi được 1 bài là thứ, 2 bài là bình, 3 bài đỗ loại ưu.
Giỗ tổ võ Bình Định - cố võ sư Phan Thọ - xã Bình Nghi - huyện Tây Sơn
Kỳ đệ nhị: Côn gỗ, đi đủ 3 bài, quên một bài cũng trượt. Lần lượt các thí sinh sẽ trải qua bài Khiên (gọi là đằng bài), là bài thi với tấm khiên bằng mây và gươm hoặc siêu hay đại đao, nặng bằng 15 quan tiền. Bài thi Độc kiếm, với cây kiếm dài một mét 50 phân ta, nặng bằng 15 quan tiền. Bài thi tiếp theo là dùng ngọn giáo dài 9 thước ta, đứng cách xa bù nhìn (hình nhân giả) mười trượng, chạy đến đâm. Chỗ thí sinh đứng cách bù nhìn có đào sẵn ba cái hố, sâu 5 thước, ngang ba thước. Cứ ba hố thì ba quãng đất trống, khi nghe tiếng trống thúc thì phải chạy, không được đi thong thả và nhảy qua ba cái hố sâu, rồi nhằm đâm trúng rốn con bù nhìn. Kỳ này khó vì nhiều thí sinh võ bị sa hố, không lao đến được chỗ bù nhìn. Các bài thi nói trên nếu không bị sa hố, múa tốt nhưng đâm không trúng rốn bù nhìn thì được ưu bình, nếu đâm trúng rốn bù nhìn hay đâm sượt qua cũng được lọt vào kỳ thi đệ tam.
Kỳ đệ tam: Bắn súng máy đá. Từ chỗ bắn đến chỗ dựng bia cách xa 25 trượng, thí sinh phải bắn 6 phát. Mỗi lần trúng đích thì ăn hai quyền (vào vòng tròn là quyền). Vòng tròn ở bia rộng một thước hai ta, còn cái dĩa đích thì bằng ba tấc. Không trúng vòng là liệt. Được một hay hai quyền là thứ hạng. Được ba hay bốn quyền là bình hạng. Được năm hay sáu quyền là ưu hạng. Ai được ưu, bình, thứ thì được vào kỳ thi phúc hạch.
Kỳ đệ tứ và phúc hạch: Thi đấu roi. Dùng hai thanh côn gỗ dài 7 thước ta, đầu côn có bọc giẻ và nhúng mực. Ai thắng thì đấu với người thắng, ai thua (phụ) thì đấu với thua (phụ). Nếu nhất thắng nhất phụ là thứ hạng; nhất thắng nhất đồng là bình hạng; nhị thắng là ưu hạng.
Thi Bắn: Tấm bia là một người bù nhìn bằng bùn quét vôi. Thí sinh đứng cách bia 25 trượng. Kỳ này trúng một phát cũng được. Cách tính điểm số như sau: một phát là thứ, hai phát là bình, ba phát là ưu.
Thí sinh thi xong cả bốn kỳ, đến khi xướng danh xong thì các thí sinh tiếp tục phải xách tạ lại. Nếu đi thiếu một, hai thước ta cũng bị đánh hỏng. Sở dĩ có kỳ thi này là đề phòng thi cử gian lận. Trong kỳ thi phúc hạch khoa này có ông Bùi Duy Thiên, quán quân làng Hòa Mã, tỉnh Hà Nội, vì quá gầy nên khi xách tạ nặng không tốt; quan trường phải làm sớ tâu lên. Ông bị gọi vào kinh thi lại trong một ngày, sau cũng được đậu Cử nhân võ.
Kết quả khoa nói trên có 34 võ cử nhân ghi tên hổ bảng (Bảng bằng phên cót, sau lưng có vẽ con hổ). Quan trường vì thương trong số thí sinh có nhiều người tài, nên vớt thêm 80 người nữa và ban cho áo mũ hẳn hoi nhưng sau đó khi dâng tấu về kinh độ thi 80 ông cử võ đậu vớt này đã bị triều đình bác bỏ (không công nhận), đòi lại áo mũ.
Mỗi người nói trên phải trả 12 quan tiền, gọi là tiền giặt áo ban nữa. Vì có sự việc này nên trong số 80 ông cử trượt ấy, người thì phẫn uất mà chết vì khao vọng cả, người thì bất đắc chí âm mưu làm những việc phản nghịch.
Tiến sĩ võ “đất võ”
Bình Định từ xưa đã nổi tiếng về tinh thần thượng võ. Không chỉ nam giới học võ, ngay cả nữ nhi cũng không chịu nhận thân phận “phái yếu”.
Chuyện “Đất võ” có nhiều người giỏi võ chắc không xa lạ với chúng ta. Tuy vậy, điều ít được biết đến là ở đây đã từng có một “Trường thi Tiến sĩ võ” để làm quan võ triều đình...
Theo cuốn “Võ nhân Bình Định” của Quách Tấn – Quách Giao thì Trường thi võ Bình Định nằm ở phía Tây Nam thành Hoàng Đế, nay thuộc phường Nhơn Hòa, thị xã An Nhơn. Xung quanh trường, người ta cho xây một bức tường thành bằng chất liệu đá ong, rộng 193 trượng, cao 4 thước 5 tấc. Đây chính là một trong 4 trung tâm đào tạo “quan võ” cho triều đình Huế.
Thời ấy, cả nước có 4 trường thi võ, gồm Hà Nội, Thanh Hóa, Huế và Bình Định. Thi Tiến sĩ võ có quy chế tuyển chọn từ thấp đến cao như thi Tiến sĩ Văn. Đầu tiên thi “Hương võ” phải qua 3 giai đoạn như: Thí sinh xách vật nặng, đấu côn, quyền, đao, thương ... và thi bắn súng. Sĩ tử nào vượt qua 3 môn thi nói trên được triều đình phong học vị “Cử nhân võ”, còn gọi là “Võ Cử”. Thí sinh nào chỉ đạt 2 môn thì được gọi là “Tú tài võ”. Sau kỳ thi “Hương võ” thì đến kỳ thi “Hội võ” và “Đình võ”. Thời ấy các võ sư ngạch lính, ngạch dân ở các tỉnh về thi võ ở kinh thành đều được triều đình cấp tiền, gạo ăn đi đường…
Trường thi võ ở Bình Định giống như các Trường thi võ ở Hà Nội, Thanh Hóa và Huế. Thí sinh giỏi võ nhưng yếu về binh pháp, trận đồ thì không được công nhận là “Tiến sĩ võ”. Năm Mậu Dần (1878), triều đình Huế tiếp tục cho mở khoa thi “Hương võ” ở 4 địa điểm là Bình Định, Thừa Thiên Huế, Thanh Hóa và Hà Nội. Đến năm Kỷ Mão (1879), cả 4 trường thi võ trong toàn quốc chỉ tuyển được 120 Võ cử. Tuy vậy, hầu hết các Cử nhân võ này đều kém chữ nghĩa, không am hiểu binh thư nên không giúp được gì cho đất nước trong thời chiến tranh.
Năm 1883, Vua Tự Đức băng hà, Kiến Phúc lên ngôi với sự cố gắng khôi phục Trường thi Tiến sĩ võ, ông đã cho mở lại các kỳ thi “Hương võ” để chọn “Võ cử”. Nhà vua đổi mới thể lệ và các bộ môn thi võ như xách tạ, múa quyền, múa côn gỗ, múa đao to, lăn khiên, nhảy xa... kỳ thi võ cuối cùng vẫn là môn bắn súng. Triều đình chuẩn y cho Bình Định chiêu mộ được 600 võ sinh về tổ chức nuôi dưỡng để chờ ngày tranh tài “Võ cử”. Thế nhưng, dự định tốt đẹp này đã tan thành mây khói khi thực dân Pháp đánh chiếm Bắc kỳ và Trung kỳ, đồng thời ngăn cản triều đình Huế tổ chức thi “quan võ”. Số võ sinh tuyển được bị giải tán, trở về cố hương và sau này trở thành những võ sư đào tạo nhiều nghĩa quân tham gia phong trào kháng chiến chống Pháp.
Trường thi “Tiến sĩ võ” ở Bình Định giải thể vào năm 1884. Thời dụng võ tuy còn nhưng đất dụng võ không có. Theo các nhà nghiên cứu, việc Trường thi võ bị bãi bỏ là đúng vì trên thực tế các kỹ thuật về quyền cước, roi kiếm, đao thương và binh pháp cổ truyền không còn tác dụng trước vũ khí hiện đại như xe tăng, đại bác, máy bay và kỹ thuật hiện đại của quân đội viễn chinh Pháp. Tuy vậy, trong suốt chiều dài lịch sử chống ngoại xâm, tinh thần thượng võ của người Bình Định vẫn tồn tại và mang dấu ấn đặc biệt. Đất võ từ thời ấy nổi lên phong trào học võ. Người người tập võ, nhà nhà luyện võ và ngày càng xuất hiện nhiều bậc võ sư danh thủ tiếng tăm lừng lẫy, tài trí hơn người. Họ trở thành các lãnh tụ nghĩa quân kháng chiến chống ngoại xâm.
Tiến sĩ võ Bầu Đê
Các bậc cao niên trong làng võ Bình Định thường truyền tụng câu chuyện tại một kỳ thi “Tiến sĩ võ” thời ấy xuất hiện một thanh niên Bình Định tên là Bầu Đê ra ứng thí. Ông là người khỏe mạnh phi thường. Môn thi mang vật nặng đi 200m theo quy định nhưng Bầu Đê xách tạ chạy một mạch giáp vòng chu vi trường thi đến cả ngàn mét không nghỉ. Giám khảo triều đình Huế liền hội ý và lập tức đã đề cử Bầu Đê đạt Thủ khoa, không cần thi tiếp các bộ môn đao kiếm, côn, quyền khác. Một số võ sinh tỏ ra chưa tâm phục khẩu phục cách chấm điểm của giám khảo nên khiếu nại rằng “Võ gia dõng vi bán”, có nghĩa là đối với võ thuật thì sức mạnh mới chỉ là một nửa. Họ đề nghị Bầu Đê phải thi đấu thắng được 10 võ sinh có điểm cao nhất khóa thi mới phục.
Ban giám khảo cũng muốn thử tài Bầu Đê xem sao liền đưa “Cử võ” thứ nhất ra đấu. Bầu Đê chỉ xuất một chiêu đầu tiên đã đánh gãy roi đối thủ. Đấu thủ thứ 2 mới xuất trận đã bị Bầu Đê cướp roi và quật ngã ngay hiệp đầu. Tám vị “Cử võ” còn lại đành bái phục và xin miễn thi đấu.
Theo truyền thuyết, Bầu Đê quê ở đất An Nhơn (Bình Định) là người nổi tiếng giỏi võ nghệ, chỉ với một cây côn đã làm cho nhiều cao thủ trong vùng khâm phục. Tại trường thi võ, ông chỉ xuất chiêu vài ba hiệp đã đánh bại cả 3 “Cử võ” hạng nhất, nhì, ba vừa được tuyển chọn. Viên quan chủ khảo vốn là một Tiến sĩ võ của triều đình Huế với cây trường côn nổi tiếng cũng muốn thử tài Bầu Đê.
Thời ấy, trong giới võ lâm nước ta thường truyền tụng câu: “Roi kinh (đô), quyền Bình Định”, còn ở đất võ thì có câu : “Roi Thuận Truyền, quyền An Vinh”. Ban đầu nhiều người nghĩ rằng: Đấu roi thắng “Tiến sĩ võ” của triều đình Huế không phải là chuyện dễ. Vị “Tiến sĩ võ” đất kinh đô đề nghị Bầu Đê đấu với ông 10 hiệp. Bầu Đê lúc đầu e ngại không dám thi đấu nhưng cuối cùng ông cũng chấp nhận. Hai bên xuất chiêu qua lại, chỉ nghe tiếng trường côn va vào nhau, loang loáng, một lát sau Bầu Đê dùng một thế “độc” đánh văng roi của quan võ, hai bên tiếp tục đấu hiệp hai. Bầu Đê lại la lớn “Xin phép quan lớn cho tôi ra tuyệt kỹ thứ 2” - nghe vậy vị quan võ vội thoái bộ “Xin thôi” và tuyên bố rất phục tài Bầu Đê.
Hậu duệ một thời
Ông Lê Văn Nhiên - một người dân ở TP Quy Nhơn, là cháu 3 đời của một võ sư ẩn danh ở Bình Định từng kể lại với tác giả bài viết rằng: Thời ấy Bầu Đê rất giỏi võ, tiếng tăm vang xa ngoài phạm vi của tỉnh Bình Định, tuy vậy lại là đệ tử ruột của một võ sư ẩn danh khác ở xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước. Vị thầy võ này thường được gọi là “Ông Bá Mười”, tên thật là Lê Tuyên. Ở huyện Tuy Phước (cách thành phố Quy Nhơn khoảng 10km), có một làng võ tên là “làng Lê Tuyên” để tưởng nhớ công lao của vị võ tướng đã một thời cùng Mai Xuân Thưởng tham gia phong trào Cần Vương kháng Pháp. Thời võ tướng Lê Tuyên (ông Bá Mười) còn hoạt động trong phong trào Cần Vương thì Bầu Đê chỉ là cận vệ của ông Mười.
Trong dân gian Bình Định lưu hành chuyện: “ông Mười” đỗ “Cử nhân võ”, sau đó ra kinh đô Huế thi Đình và đạt danh hiệu “Tiến sĩ võ”. Vị tân Tiến sĩ võ được vua cho về thăm nhà trước khi ra lại triều đình Huế nhậm chức quan võ. Khi ông Mười đi ngang qua địa phận Đèo Nhong (huyện Phù Mỹ) thì đột ngột bị một con cọp nhảy ra tấn công, ông Mười đã đánh nhau với con cọp hung dữ này từ lúc nửa đêm đến gần sáng hôm sau mới giết được cọp. Người dân trong vùng rất phấn khởi vì chiến công của vị tân Tiến sĩ võ đã trừ mối nguy hại luôn rình rập ở đoạn đường đèo nầy.
Tuy vậy khi các quan võ của Triều đình Huế nghe tin trên đã kết tội vị tân Tiến sĩ là “phản sư”. Họ cho rằng giết cọp là vi phạm đến điều cấm kỵ của con nhà võ. Sau đó, họ tâu lên nhà vua ra chiếu chỉ thu lại bằng “Tiến sĩ võ” của ông Mười và giáng ông xuống hàng thứ dân. Ấy thế nhưng, cũng có chuyện kể rằng, ông Mười không bị triều đình Huế tước học vị tiến sĩ võ mà chỉ bị một án treo có tính chất khiển trách vì tội giết hổ…
Người dân Bình Định từ lâu đời luôn phát huy tinh thần thượng võ, nhiều người đã trở thành tướng soái của các phong trào đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác của chế độ thực dân phong kiến. Tiêu biểu là phong trào Cần Vương do Mai Xuân Thưởng lãnh đạo, những “Võ Cử” như Phạm Toản, Trần Tân, Võ Can ... đã hy sinh oanh liệt trong phong trào kháng thuế (1908) của nông dân Bình Định. Nhiều võ sư từ lò võ An Vinh (Tây Sơn), An Thái (An Nhơn) đổ về thành Bình Định để tiêu diệt bọn ác ôn sát hại người dân vô tội. “Tiến sĩ võ” Hồ Sĩ Tạo, Thủ khoa Lê Chuân (huyện Hoài Ân) là những tấm gương dũng cảm tham gia diệt ác ôn, họ đã trở thành các thủ lĩnh của phong trào chống sưu cao thuế nặng của nhà Nguyễn.
Có thể nói rằng, tỉnh Bình Định là một trong những vùng đất lịch sử của văn, võ song toàn. Nền văn hóa ở đây phong phú và đa dạng. Nhiều chứng tích lịch sử đến nay vẫn còn được bảo tồn. Tìm hiểu lịch sử đất võ Bình Định chúng ta sẽ đến với thành Đồ Bàn, thành Hoàng Đế, Linh đồng Hương Sơn và đặc biệt là Trường thi võ Bình Định nơi đã phát hiện những phẩm chất quý giá và độc đáo của con người “Xứ nẫu” đó là sự chân chất, thật thà, cần cù, sáng tạo và tinh thần thượng võ, trượng nghĩa…
Bài và ảnh: SÔNG CÔN
Nguồn: Tạp chí VHNT số 597, tháng 2-2025