Thế giới phản địa đàng trong một số truyện viễn tưởng Việt Nam đầu thế kỉ XXI

Sự trình hiện một thế giới phản địa đàng trong các tác phẩm văn học viễn tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XXI đã phản ánh khủng hoảng bản thể, những rạn nứt và đổ vỡ của các hệ giá trị trong kỷ nguyên công nghệ, đưa ra những dự cảm về sự bất trắc khi con người không còn là chủ thể nắm giữ quyền uy tối thượng.

Chủ đề phản địa đàng trong văn học

Phản địa đàng (Dystopia) ra đời như một phản ứng ngược với niềm tin về xã hội địa đàng. Utopia (1516) của Thomas More được xem là tác phẩm đầu tiên mở ra thế giới đẹp như tranh nơi con người được sống trong một nền chính trị tự quản, không có sở hữu tư nhân mà tất cả đều là của chung và mọi người đều sống hòa thuận với nhau. Con người có cơ hội được giải thoát khỏi thực tại để bay bổng trong những miền tưởng tượng bất tận về một thế giới tuyệt đối lý tưởng, công bằng, không chiến tranh, không bệnh tật và cái chết. Tuy nhiên, xã hội địa đàng kia thực chất cũng chỉ dừng lại ở những tưởng tượng và chính cha đẻ của nó cũng thừa nhận đây chỉ là một cách thể hiện thái độ bất mãn với xã hội châu Âu bấy giờ. Có lẽ, khi nàng Pandora (Thần thoại Hi Lạp) mở phong ấn của chiếc lọ tai họa, nhân loại đã biết rằng mình mãi mãi không thể nào chạm tới một xã hội địa đàng kể từ đây.

Dòng văn chương phản địa đàng thường có năm chủ đề chính. Thứ nhất, văn chương phản địa đàng lấy chủ đề về sự hủy diệt môi trường và những thảm họa của thiên nhiên. Ở khía cạnh này, nó tỏ ra rất gần với văn chương sinh thái khi trình hiện những vấn đề nhức nhối của môi sinh và thẳng thắn chất vấn sự tồn tại quá lâu dài của Nhân loại trung tâm luận đã đẩy Trái đất vào trạng thái chết. Thứ hai, văn chương phản địa đàng mở ra thế giới nơi con người phải phục tùng, tuân thủ tuyệt đối mọi mệnh lệnh của người cầm quyền. Ở đó, chủ nghĩa cá nhân hay chủ nghĩa tự do đã bị tước đoạt vĩnh viễn. Thứ ba, văn chương phản địa đàng mở ra tương lai khi công nghệ trở thành kẻ thống trị và bắt đầu viết lại cuộc chơi của lịch sử: Con người từ vị thế trung tâm trở thành kẻ Khác và công nghệ từ vị thế kẻ Khác trở thành trung tâm. Thứ tư, văn chương phản địa đàng cảnh báo con người về sự xói mòn nhân tính và sự tàn lụi của những giá trị chân thiện mỹ tốt đẹp. Thứ năm, văn chương phản địa đàng thường lấy chủ đề về sự sinh tồn, sự phản kháng của loài người trong một thế giới đẫm máu nghiệt ngã; đó là cuộc giằng co cuối cùng giữa phần con và phần người, giữa chính và tà. Sự đa dạng trong các chủ đề đã giúp cho văn chương phản địa đàng mở ra một thế giới của tương lai, hút lấy con người về phía nó để từ đó, y sẽ truy vấn ngược chính mình ở thực tại, và cố gắng làm cho cái thế giới ấy chỉ mãi mãi tồn tại trong tưởng tượng mà thôi.

 “Nhân tạo” tự nhiên hay là tìm lại vườn Địa Đàng đã mất?

Trong vũ trụ nhân văn, con người luôn được tôn vinh là “kiểu mẫu của muôn loài” và có quyền năng sáng tạo sánh bằng Chúa. Bằng cách thực hiện hàng loạt cuộc hạ bệ: Galileo Galilei phản Kinh Thánh với niềm tin trái đất quay quanh mặt trời, Benjamin Franklin tước bỏ vũ khí của thần sấm bằng cách tạo ra cột thu lôi, Charles Darwin “chống” tạo hóa với những mặc cảm tội lỗi bằng Thuyết Tiến hóa…; gần như không còn gì có thể ngăn cản loài người trở thành vua của thế giới được nữa. Hơn thế, từ rất lâu con người còn ấp ủ tham vọng được tạo ra một thế giới chỉ của riêng mình. Đó là không gian mạng với những cái tôi ảo, những nhân cách khác trong cùng một bản thể. Là trí tuệ nhân tạo (AI) đang ngày một giống người. Là tự nhiên được mô phỏng với những mặt trời thứ hai, mặt trăng thứ hai…

Trong thực tế nhân loại đang đối mặt với khủng hoảng sinh thái, các nhà văn đã thử tiên lượng về một thế giới phản địa đàng đã không còn màu xanh. Thế giới ấy hoàn toàn đi ngược lại với tất cả những niềm tin tốt đẹp mà loài người đã trông cậy: Thảm thực vật bị thiêu rụi, cuộc tuyệt chủng lần thứ sáu xảy đến, mặt đất cạn oxi và nhân loại phải lầm lũi sống trong Thế Giới Ngầm với một thứ tự nhiên giả tạo và u buồn. Trong Hong tay khói lạnh, ở phần đầu của cuốn sách - giả tưởng sau tận thế, Nguyễn Ngọc Tư đã bày tỏ chân thật nỗi bất an về một thế giới sống tăm tối của tương lai trong lời bạt: “Giống như mấy bộ phim hậu tận thế (cũng là giả tưởng buồn hiu): bề mặt trái đất không còn sự sống, không màu xanh, chỉ bụi xám chì phỉ lớp đất bạc như muối hầm. Và nắng, thứ nắng lửa tận diệt mọi sinh vật nào đối đầu trực tiếp với nó, bằng sức nóng hủy diệt”. Đó là một không gian hậu tận thế tận diệt khi con người phải chạy trốn Bề Mặt với những cuộc “Đại di cư” xuống lòng đất, sống vĩnh viễn với thứ ánh sáng nhân tạo, nguồn nước sạch nhân tạo, máu người trở thành dầu nhớt và đầu óc được bọc bằng titan. Trong tình thế thảm hại đó, con người chỉ có thể hoài tiếc về một thế giới bên ngoài, thế giới của trước kia khi sống trong lồng kính, thèm khát cái nắng của mặt trời tự nhiên dẫu biết nó có thể thiêu rụi mình (nắng gọi ngoài kia). Càng sống trong nỗi hoài tiếc, con người càng trở nên kiệt quệ, mất phương hướng khi sống với thực tại dưới lòng đất tù túng, thiếu thốn và giả tạo. Trong hoàng hôn của than vãn là thế giới của những người đàn bà (mang tên của các loài hoa) rệu rã trước thảm họa tự nhiên: Đậu Biếc không chịu tản cư vì “thà chết còn hơn bỏ đồ đạc lại”, Xuyến Chi khát khao “được khô ráo (dù chỉ) một lúc” trước cơn hấp hối của trái đất, Dã Quỳ “mất nước trầm trọng” vì bị những người đàn ông bỏ rơi, Nguyệt Quế không còn đủ tỉnh táo để phân biệt đời thực và giấc mộng, Cát Tường “vật lộn với những viên ngọc trong bụng sau khi ăn nhầm cát”. Dẫu họ có tìm đến bác sĩ tâm lý đi chăng nữa, thì những lời khuyên răn sáo rỗng cũng không thể vực họ dậy khỏi cơn thương chấn khi sống trong một thế giới đã mất màu xanh.

Các tác phẩm văn học viễn tưởng được giới thiệu trong những năm gần đây đã thể hiện nỗi ưu tư trăn trở của các nhà văn về một thế giới “nhân tạo” vô hồn. Với 2 người trong 1 ngăn tủ, Phát Dương giả tưởng về một thế giới như được bọc trong một cái lồng kính khổng lồ với những con cá voi và quả cam lững lờ trôi trên không. Biến thể của cô đơn (Yang Phan) đã tô đậm cái thế giới lạ lùng đến mức quái dị. Trong đó, con người đã cắt đứt toàn bộ kết nối với tự nhiên và kiêu ngạo phá vỡ quy luật sinh thái của hành tinh này. Trong Biến thể số 4, không gian sinh thái nhân tạo được trình hiện như một sự mô phỏng hoàn toàn tự nhiên. Không gian ấy đã tước đoạt quyền năng của tạo hóa để lập trình, điều phối cả những yếu tố tưởng chừng không thể xâm lấn, can thiệp, từ quá trình sinh dưỡng đến cấu tạo của thực vật. Theo đó, “Con người đã chạm đến trình độ sao chép những gì giống với tự nhiên nhất…Thậm chí, họ tái tạo cả thiên nhiên với các loài động thực vật máy.” Thế nhưng, các loài sinh vật máy đã bị tước đoạt bản năng sinh tồn hay phản xạ tự nhiên, từ tiếng hót véo von giả tạo của con chim họa mi máy đến sự biến mất khả năng đánh dấu lãnh thổ của loài mèo và bản năng chạy trốn khi gặp hiểm nguy của loài nai. Đồng thời,  chính trong thế giới ấy, con người đã phải chịu lấy nỗi đau cáo chung của môi sinh và không còn cơ hội được trở về thế giới tươi đẹp của trước đây: “Từ lâu, Thế giới ngầm đã không còn nguồn nước sạch. Ô nhiễm, biến đổi khí hậu tại Trái Đất khiến mọi người thứ tinh khiết trở nên đắng chát. Đó cũng là lý do khiến con người tại Thế giới ngầm suy yếu” [tr.146]. Lời sấm truyền của Mẹ Thiên Nhiên về sự tuyệt diệt đã ứng nghiệm trong kỷ nguyên hậu nhân: “Băng dần tan, giải thoát một dịch bệnh đến từ thời cổ đại, chấm dứt sự thống trị của con người” [tr.121]. Những tưởng việc tạo ra một thứ tự nhiên nhân tạo sẽ giúp con người tìm lại một vườn Địa Đàng đã mất và tìm thấy chút hy vọng để tiếp tục tồn tại nhưng không, tất cả đều chỉ là cơn ảo mộng khởi đầu cho một chuỗi bất hạnh về sau.

Quyền lực công nghệ: Khi con người trở thành kẻ Khác

Sau khi nếm trải dư vị trái cấm, con người đã bị trục xuất khỏi vườn Địa Đàng vĩnh viễn. Nếu trái cấm trong Kinh Thánh là biểu tượng của tri thức bị cấm đoán, thì ngày nay, công nghệ và kỹ thuật chính là những “trái cấm” mới - hấp dẫn, quyền năng song cũng khiến con người đứng trước nguy cơ bị hủy diệt. Sự trình hiện một thế giới phản địa đàng trong các tác phẩm văn học viễn tưởng đã buộc con người phải truy vấn về quyền lực công nghệ - thứ ban phát cho con người những ảo tưởng về một vị Chúa mới, một Đấng toàn năng song cũng khiến con người trở thành kẻ khác. Loài người đã trở thành những kẻ ngoài lề, những kẻ bị tước đoạt tiếng nói bởi những phát kiến vĩ đại của chính mình: những cỗ máy.

Trong Dị bản của Nguyễn Đình Khoa, sự hoán vị tương quan quyền lực đã khiến con người trở thành những kẻ Khác - những kẻ luôn trong trạng thái “bị nhìn”, bị trấn áp bởi thứ quyền lực công nghệ. Thế giới phản địa đàng được kiến tạo như một sự khuếch tán, phóng đại nỗi sợ của con người ở cường độ cao nhất: nỗi sợ bị tước đoạt quyền kiểm soát toàn trị. Nó tồn tại như một dạng thức lai ghép giữa cơ chế vận hành máy móc và ý chí quyền lực của con người. Muốn tồn tại trong thế giới ấy, con người chỉ có thể chấp nhận bị đồng hóa, trở thành một móc xích trong hệ thống máy móc, nghĩa là anh phải giã từ quyền lực, phải phủ nhận, chối bỏ tư cách làm người. Frank từ chối việc thỏa hiệp, bởi lẽ hắn vẫn còn theo đuổi mộng tưởng trở thành một vị Chúa để rồi cuối cùng hứng chịu sự hủy diệt, bại vong. Frank đã bị quan sát, thao túng, điều phối bởi hệ thống máy móc do hắn thiết lập. Sự tuyệt đối hóa vị thế và quyền uy thống trị của con người chỉ là một ảo tưởng. Những tưởng Frank đã thâu tóm và kiểm soát tất cả nhưng hóa ra, hắn chỉ là một “vật bị nhìn”, một kẻ bị quản thúc, cưỡng chế.

Không gian sống ở tập truyện 2 người trong 1 ngăn tủ của Phát Dương ở một góc độ nào đó cũng đã trình hiện một thế giới phản địa đàng mà ở đó, số phận con người bị sắp đặt, định đoạt bởi quy luật kỹ trị lạnh lùng, khắc nghiệt. Sinh tồn không còn là quy luật hiển nhiên mà trở thành một đặc ân có thể bị tước đoạt bất cứ lúc nào. Trong truyện ngắn 2 người trong 1 ngăn tủ, một không gian sống hoàn toàn khác biệt được mở ra: Trên những con tàu ngoài vũ trụ vì lúc này đây trái đất đã không còn nữa. P193 tỉnh dậy sau một giấc ngủ đông dài và được chọn là người kế nghiệp lễ tân cho khách sạn phi thuyền. Cách thức hoạt động của khách sạn ấy vô cùng kỳ lạ: Trong một phòng chỉ được phép có duy nhất hai sinh vật chung sống, không hơn không kém. Vì thế, một tình huống oái oăm diễn ra: Một cặp vợ chồng nghèo chuẩn bị đón đứa con đầu lòng của họ không thể tìm được một căn phòng nào. Trong tân thế giới bị siết chặt bởi luật lệ và tiền bạc đi đầu, cặp vợ chồng nọ chỉ còn hai lựa chọn, hoặc là người chồng phải ra đi, hoặc là đứa con phải bị bán. Ở thế giới đó, người ta sẽ luôn còn chỗ cho “quý cô” ngoài hành tinh XXX với 100 con cá chứ không còn bất kì chỗ đứng nào cho con người. Không gian ngăn tủ tưởng là quá rộng nhưng thật ra lại quá hẹp. Trong không gian đó, người ta phải ngậm đắng nuốt cay: “Kiêu hãnh để làm gì?”.

Trong thế giới bị thống trị bởi quyền lực công nghệ, con người trở nên thất thế, thậm chí bị tước đoạt tiếng nói trong lãnh địa tưởng chừng chỉ thuộc chủ quyền sở hữu của con người, tôn vinh sự độc bản của loài người như văn chương. Trong Biến thể số 2 trích từ tập truyện Biến thể của cô đơn của Yang Phan, gã văn sĩ ôm mộng tưởng khôi phục thị trường văn học nhưng rồi lại trở nên thất thế trước sự thống trị của tập đoàn người máy; bởi lẽ, gã phải chịu sự kiểm duyệt và suy xét của những biên tập viên AI - những cỗ máy mà gã hằng khinh ghét. Con người bị lưu đày trong vùng câm lặng của lịch sử, bị tước đoạt tiếng nói và quyền năng sáng tạo trong chính cõi giới tưởng chừng bất khả xâm phạm: Nghệ thuật.

Như thế, các tác phẩm văn học viễn tưởng Việt Nam đầu thế kỷ XXI đã khắc họa diện mạo của một thế giới phản địa đàng mà ở đó, sự tiến bộ về khoa học kĩ thuật con người hằng ao ước vẫn không thể xoa dịu nỗi đau dai dẳng của nhân loại. Sự trình hiện một thế giới phản địa đàng đã buộc con người phải phản tư để truy vấn về vị thế đích thực của mình trong thế giới, và “sau tất cả, chúng ta buộc phải tỉnh lại”.

 

NGUYỄN ĐĂNG GIA HY - NGUYỄN THỊ THẢO NGUYÊN

Nguồn: Tạp chí VHNT số 607, tháng 5-2025

;