Nghiên cứu người trẻ Việt Nam trước "bước ngoặt nhân học"

PGS, TS Đỗ Lai Thúy

 

Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Từ lâu Nhà nước Việt Nam đã rất tâm đắc với lời dạy này của tổ tiên. Bởi vậy, Chính phủ, nhất là Bộ VHTTDL rất chú trọng đến việc đào tạo và bồi dưỡng nhân tài. Mỗi khi đất nước chuyển mình bước sang một giai đoạn phát triển mới thì nhu cầu có những con người trẻ tuổi, tài năng lại càng cấp thiết, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, trong khoa học xã hội và nhân văn... Tôi xin nêu ra một hiện tượng mới trong nghiên cứu là xuất hiện bộ môn nhân học, nhân học văn hóa, và sự lôi cuốn của nó đối với các nhà nghiên cứu trẻ. Có thể nói, đó là một bước ngoặt, “bước ngoặt nhân học” trong giới nghiên cứu Việt Nam.

Trong nghiên cứu văn hóa, khoa học, xã hội và nhân văn, mỗi khi xuất hiện một khoa học mới thì hoặc “lập tức” hoặc “mưa dầm thấm lâu” ảnh hưởng của nó lên các khoa học khác tạo ra một bước ngoặt. Lịch sử khoa học đã từng chứng kiến các bước ngoặt như vậy. Ví như “bước ngoặt xã hội học”, khi nhà triết học Pháp A. Comte áp dụng các thành tựu của khoa học tự nhiên vào nghiên cứu xã hội, mang lại cho nó một tinh thần khoa học, khoa học thực chứng, khiến ra đời môn xã hội học như là khoa học chủ đạo của TK XIX. “Bước ngoặt phân tâm học”, khi học thuyết Freud, sau đó Jung khai phá phần khuất, phần chìm của tảng băng trôi, phần vô thức trong con người. Từ đó phân tâm học đi vòa tất cả các lĩnh vực của dời sống người. Và, gần đây là “bước ngoặt nhân học”, khi nhân học phát triển hết các giai đoạn của nó: nhân học hình thể (nhân chủng học), nhân học xã hội (nhân loại học), nhân học văn hóa. Nhân học văn hóa bao hàm được cả những thành tựu trước đó của dân tộc học lẫn xã hội học để tạo ra đối tượng và phương pháp riêng của mình. Bởi vậy, nó là một khoa học có tính chất tổng hợp mà bất cứ một khoa học nào, cả khoa học tự nhiên lẫn xã hội và nhân văn, đều ít nhiều chịu ảnh hưởng.

Nhân học văn hóa ở và của Việt Nam có một sức hấp dẫn lớn với các nhà nghiên cứu trẻ. Học ở nhiều các lĩnh vực khác nhau, như nghiên cứu văn học Việt Nam, lý luận văn học (Mai Anh Tuấn, Nguyễn Mạnh Tiến, Nguyễn Thùy Trang), văn học dân gian, phân tâm học (Vũ Thị Trang, Đàm Nghĩa Hiếu), thậm chí ở lĩnh vực dịch thuật (Phạm Minh Quân)… Tiếp xúc với nhân học văn hóa, họ không chỉ mở rộng chân trời nghiên cứu của mình, mà còn lấy phương pháp nhân học văn hóa như là phương pháp luận trong lĩnh vực nghiên cứu của mình, và từ đó dần dần chuyển sang nghiên cứu nhân học Việt Nam. Chúng tôi xin dẫn ra một vài nhà nghiên cứu trẻ đã tham dự vào “bước ngoặt nhân học”.

Nguyễn Mạnh Tiến (sinh năm 1983), thạc sĩ văn học ở Huế, khi ra Hà Nội đã trở thành một trong những người đầu tiên tham dự “bước ngoặt nhân học” này. Những đỉnh núi du ca (Nxb Thế Giới, 2014; Hội Nhà văn, 2017) là một mở đầu hoàn hảo.

Tác giả Nguyễn Mạnh Tiến trong chuyến tìm hiểu tiếng khèn Ma Khái Sò của người Mông trên cao nguyên đá Đồng Văn

 

Từ những bài dân ca Mông, thể loại văn học dân gian tiêu biểu cho tộc người này, bằng phương pháp “xếp chồng văn bản” của nhà phê bình phân tâm học Charles Mauron, tác giả đã tìm ra những “biểu tượng ám ảnh”, tức những biểu tượng có tần suất lớn và có cội rễ từ vô thức tập thể. Phân tích, sắp xếp và lý giải các biểu tượng này là “con đường hoàng đạo” dẫn đến cá tính/ căn cước/ bản sắc văn hóa tộc người.

Tuy vậy, “bước ngoặt nhân học” không chỉ là một lối rẽ trong phòng giấy, mà phải trên thực địa. Nguyễn Mạnh Tiến đã phải tự bỏ tiền túi để “xe lên xe xuống” hàng chục lần trên đất Hà Giang, Lào Cai… để sống không phải cùng với người Mông, mà sống Mông. Những sống trải này không chỉ giúp Tiến kiểm chứng những gì đã đọc, mà còn thêm những biết mới, đặc biệt từ sự lý giải những sai lệch giữa cái đọc và cái biết, giữa lý thuyết và thực tế, Nguyễn Mạnh Tiến đã có tư duy nghiên cứu độc lập, mở rộng quan niệm về văn học. Điều này chẳng những đưa nghiên cứu văn học thoát khỏi sự “cầm tù của văn bản” đến với văn hóa, mà còn kiến tạo nên “mô hình núi” mở ra con đường tiếp cận Việt Nam từ núi, ngoài con đường cố hữu từ đồng bằng, hoặc từ biển mới biết gần đây. 

Đàm Nghĩa Hiếu (sinh 1988, Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng) cũng dấn thân vào con đường này. Không quản “thân gái dặm trường”, Hiếu cũng một mình lặn lội nhiều lần ở vùng núi các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình để nghiên cứu truyện cổ Bru-Vân Kiều, một nét trội của văn học tộc Mon-Khmer này.

TS Đàm Nghĩa Hiếu

 

Người Bru-Vân Kiều vốn ở cao nguyên Trung Lào, thậm chí gần châu thổ sông Mekong. Do những xáo trộn xã hội và tộc người (người Thái vào đất Lào và chiếm cứ vùng đồng bằng), họ phải tìm đến những vùng đất mới. Điểm dừng chân cuối cùng của họ là phía đông Trường Sơn. Tại đây họ phải đối mặt với một thiên nhiên khắc nghiệt và những tộc người láng giềng gốc Nam Đảo xa lạ. Để tồn tại được, họ phải tìm cách sống hòa hợp với chung quanh. Thích nghi, bởi vậy, trở thành con đường sống của họ, trở thành cá tính tộc người của họ. Những kinh nghiệm ấy, những cảm xúc ấy đã được lưu giữ trong truyện cổ, cuộc sống thứ hai của họ. Điều tưởng như đơn giản ấy không nằm sẵn trong văn bản văn học. Để “phát hiện” nó, Đàm Nghĩa Hiếu đã phải qua rất nhiều những cuộc trò chuyện với các “già làng trưởng bản”, các cán bộ văn hóa, đoán ý họ qua những ngập ngừng, đoán nghĩa qua những hiện tượng văn hóa bị lai ghép, hoặc đã tàn phai. Tuy nhiên, từ đó Hiếu cứ băn khoăn: nếu người Bru-Vân Kiều cứ thích nghi mãi, thích nghi nữa do sự đòi hỏi ngày càng nhiều của những hoàn cảnh mới thì liệu họ có còn là họ nữa không?

Sự thành công của “bước ngoặt nhân học” này, cũng như sự “lôi kéo” của Nguyễn Mạnh Tiến khiến một số nhà nghiên cứu khác cũng dần ít nhiều ngả theo hướng đi trên. Điều này phần nào được thể hiện ở Tủ sách Hiểu Việt Nam, như trong cuốn Những cạnh khía của lịch sử văn học Đoàn Ánh Dương từ văn học Việt Nam đương đại. Nguyễn Đào Nguyên từ văn học Việt Nam trung đại. Phan Tuấn Anh từ lý luận văn học ở/của Việt Nam. Lê Nguyên Long từ lý luận văn học hiện đại thế giới. Phùng Kiên từ dịch văn học và so sánh văn học…

Đặc bit là trường hp Mai Anh Tun (sinh 1985), người đang gặp khó khăn trong một công trình viết về Nguyễn Huy Thiệp. Lối tiếp cận thi pháp học, tự sự học ở Việt Nam đã bắt đầu kém năng suất kể cả trên những thửa ruộng cao sản Nguyễn Huy Thiệp. Hơn nữa, nghiên cứu nội quan biến các nhà phê bình thành những kẻ “đặc tuyển”, nói một thứ ngôn ngữ riêng đầy thuật ngữ khó hiểu. Chuyển sang nghiên cứu nội - ngoại quan là đưa văn học về với xã hội, cho phê bình văn học về với văn hóa, thế giới sống nguyên thủy của nó. Bởi, phê bình văn học thực chất là phê bình văn hóa. Và, một trong nẻo về đó là đến với nhân học, tham dự vào “bước ngoặt nhân học”. Truyện ngắn, kịch, phiếm luận Nguyễn Huy Thiệp được nhìn từ nhân học văn hóa bỗng hiện lên với ánh sáng khác, không phải sáng lóa, sáng lòe, mà sáng trắng. Thậm chí, các tiểu thuyết của Thiệp, nếu nhìn bằng con mắt tiểu thuyết, là yếu kém, thì lại giàu nghĩa, dôi nghĩa trong con mắt của nhân học văn hóa. Sự chuyển hướng này đòi hỏi ở Mai Anh Tuấn nhiều can đảm. Tuấn đã phải bỏ những gì mình đã làm gần xong để bắt đầu lại từ đầu, bỏ những gì đã chắc ăn để lao vào cái chưa hẳn đã ăn chắc.

Nhà phê bình văn học Mai Anh Tuấn

 

Nghiên cứu tâm lý một tộc người cũng là nghiên cứu văn hóa tộc người đó, bởi như G.Devereux nói: tâm lý là văn hóa phóng chiếu ra bên ngoài, còn văn hóa là tâm lý phóng chiếu vào bên trong. Vào các ngày từ 28-11 đến 1-1202017, Hội Tâm lý học ứng dụng quốc tế kết hợp với Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Hà Nội), Viện Tâm lý học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội tổ chức hội thảo quốc tế “Tâm lý học khu vực Đông Nam Á lần thứ nhất” ở Hà Nội. Tiểu ban Tâm lý học dân tộc do Đỗ Lai Thúy làm trưởng tiểu ban và điều khiển phiên hội thảo, gồm các báo cáo: Về căn tính tiểu nông của người Việt của Đỗ Lai Thúy, Tâm lý học tộc người: Các hướng tiếp cận nghiên cứu và triển vọng ứng dụng ở Việt Nam hiện nay của Phạm Minh Quân, Nới rộng vào nghiên cứu tâm lý tộc người Mông [Dẫn liệu tâm lý tôn giáo tộc người từ tang ca] của Nguyễn Mạnh Tiến, Một giả định về sự kết nối các biểu trưng tâm lý của người Bru - Vân Kiều trong truyện cổ của Đàm Nghĩa Hiếu, Phức cảm “cua” trong tâm lý người Việt Nam của Nguyễn Văn Sơn, được nhiều nhà khoa học nước ngoài tham dự và tranh luận.

Xin giới thiệu thêm một gương mặt mới của nhân học trong lĩnh vực dịch thuật: Phạm Minh Quân (sinh 1993). Tốt nghiệp thạc sĩ văn hóa học, do trình độ chuyên môn và khả năng ngoại ngữ, Quân được nhiều cơ quan nghiên cứu sẵn sàng đón nhận. Nhưng Quân đã từ chối để lấy thời gian “tranh thủ” dịch nhiều tác phẩm của nhân học Mỹ, như Tư duy nguyên thủy của Franz Boas (Nxb Thế Giới, 2021), người sáng lập trường phái nhân học Mỹ; Các mô thức văn hóa của Ruth Benedict (Nxb Tri thức, 2019), người khởi đầu trường phái văn hóa và nhân cách; Tuổi trưởng thành ở Samoa của Margaret Mead (Nxb Thế Giới, 2021); Tình dục và ức chế trong xã hội hoang dã của Bronislaw Malinowski (Nxb Thế Giới, 2019; 2021), nhà nhân học Anh, cha đẻ của phương pháp “quan sát tham dự”; Chuyện cơm Hội An: thức ăn và cộng đồng ở một đô thị Việt Nam của nhà nhân học người Israel Nir Avieli (Nxb Đà Nng, 2024)...

Đáng chú ý là gn đây Phm Minh Quân đã chuyn sang dch mt s tác phm v ngh thut, như Hồi ức của một nhà buôn tranh của Ambroise Vollard (Nxb Thế Giới, 2021), Những nguyên lý của lịch sử nghệ thuật của Heinrich Wölfflin (Nxb Thế Giới, 2022), Người chơi của Johan Huizinga (Nxb Thế Giới, 2023), Xem tranh của Susan Woodford (Nxb Thế Giới, 2023), đây là những tác phẩm quan trọng trong nghiên cứu lịch sử và phê bình nghệ thuật, đồng thời cũng thể hiện khuynh hướng của Minh Quân trong việc chuyển dịch sang nhân học nghệ thuật, như là một mô hình tiếp cận nghệ thuật từ góc độ chủ thể tiếp nhận/diễn giải, vốn là một trong những phương pháp luận đặc biệt hiệu quả để nghiên cứu nghệ thuật đương đại ngày nay. Và như để cụ thể hóa và lan tỏa những dịch và nghiên cứu lý thuyết của mình, anh đã tham gia giảng dạy các môn về lịch sử, lý luận và phê bình nghệ thuật tại Khoa Nghệ thuật và Thiết kế, Trường Khoa học liên ngành và Nghệ thuật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

TS Phạm Minh Quân

 

Nhân học văn hóa ở/của Việt Nam hiện nay lấy mục đích chính là nghiên cứu những vấn đề văn hóa và xã hội Việt Nam từ xưa đến nay, nhằm hiểu Việt Nam, từ đó đóng góp vào việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam vừa đảm bảo được đặc tính dân tộc vừa có một trình độ hiện đại để hòa mình vào thế giới. Đó chính là ngành Việt Nam học. Chúng ta đã tổ chức nhiều Hội nghị Quốc tế về Việt Nam học, nhưng do quan niệm tất cả những gì viết về Việt Nam thì đều thuộc về Việt Nam học nên đã không thành công. Việt Nam học phải là một khoa học, có tính chất lý thuyết, nhằm không chỉ hướng đến nghiên cứu Việt Nam mà còn có tính chất định hướng cho việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong thời đại mới. Do đó, nghiên cứu Việt Nam học, chúng tôi thấy, phải lấy nhân học văn hóa làm cơ sở lý luận của nó. Và, góp phần thúc đẩy sự nghiệp này, chúng tôi đã thành lập Viện Nhân học Văn hóa nhằm thu hút các nhà nghiên cứu trẻ, có tâm huyết vào nghiên cứu và tự rèn luyện mình.

Những ấn phẩm của Nguyễn Mạnh Tiến

Sách Nhân học văn hóa ở Việt Nam Diễn trình và nghiên cứu của Đỗ Lai Thúy và Phạm Minh Quân (chủ biên)

Một số ấn phẩm sách dịch của Phạm Minh Quân

 

                                    

Tham luận tại Hội thảo "Tài năng trẻ - Nguồn lực sáng tạo và phát triển văn hóa nghệ thuật" do Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật tổ chức tháng 11/2024
 

 

 

ĐỖ LAI THÚY

Nguồn: Tạp chí VHNT số 595, tháng 1-2025

 

 

;